Thứ Ba, 1 tháng 7, 2014

Đáp ứng yêu cầu của độc giả đối với người viết bài “Góp phần tìm hiểu sự thực về GS Nguyễn Lân”


                                                                                     Lê Mạnh Chiến

      Thưa quý vị độc giả kính mến,         

      Ngày 05/6/2014, chúng tôi đã công bố bài Góp phần tìm hiểu sự thực về GS Nguyễn Lân trên blog Quê choa và đã được đông đảo độc giả hưởng ứng. Một số độc giả  cho biết rằng, sự  bàn tán, trao đổi  sôi nổi  xung quanh  bài  Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân  đã khiền nhiều người chưa đọc bài ấy muốn biết đó là  những “sự thật” gì nhưng họ rất khó tìm đọc vì số bài trên blog Quê choa  tăng lên vùn vụt từng ngày nên nhiều người tìm mãi mà không  được.  Không ít người mong tác giả giới thiệu tóm tắt những “sự thật”  ấy  cho họ đọc trước đã, sau đó, khi có điều kiện hoặc thấy cần kíp thì  mới đọc kỹ  toàn bài. Lại có độc giả nói rằng, bài  Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân tuy là một bài lược thuật nhưng vì phải khảo chứng cặn kẽ, với nhiều chứng liệu cụ thể nên không thể ngắn gọn, mà thực tế là một bài rất dài. Theo độc giả này,  người viết bài cũng nên đúc kết phần khảo chứng của mình, nhằm giúp độc giả dễ nắm bắt những ý chính trong bài.

     Mới đây, ngày 23/6/2014, chủ Blog Quê choa đã chuyển cho tác gỉả mấy dòng thư của độc giả Yên Duyên Hương (địa chỉ Email: yenduyen...@gmail.com) nêu vài thắc mắc, như sau: 

     Cảm ơn ông Nguyễn Quang Lập. Qua Quê choa, chúng tôi mới biết được nhiều sự thật về học thuật, về "tên tuổi" của nhiều "học giả ", những Nguyễn Lân, Lê Xuân Đức, Vũ Ngọc Khánh... Vừa qua có bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân. Qua Quê choa, chúng tôi xin hỏi: trong bài viết có  nói: đợt phong Giáo sư đầu tiên là năm 1956, nhưng theo từ điển mở Wikipedia  thì đợt phong Giáo sư đầu tiên của Việt Nam là năm 1976 (trong đó có Trần Đức Thảo). Liệu có sự nhầm lẫn nào của ông Lê Mạnh Chiến, dẫn đến việc bỏ sót tên GS Nguyễn Lân không ?

     Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào ?

     Rất mong ông Nguyễn Quang Lập liên hệ với tác giả giúp chúng tôi.

     Xin trân trọng cảm ơn trước.

       Tác giả thấy mình có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu trên đây của quý vị độc giả nên phải viết bài giải đáp này và đưa lên mạng Internet để chuyển đến các độc giả đã gửi lời yêu cầu, cùng tất cả mọi người Việt Nam yêu chuộng sự thật và quan tâm đến hiện trạng văn hóa – giáo dục của đất nước.

I. 
Những ý chính trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân


       Trong một cuộc gặp gỡ thân mật của một nhóm  bạn học cũ  nhân dịp tết Canh Ngọ, đã diễn ra một cuộc mạn đàm nghiêm túc để tìm hiểu sự thật về Nhà giáo Nguyễn Lân. Nội dung cuộc mạn đàm này đã được lược thuật kèm theo việc khảo chứng dựa trên những sách vở do Nhà giáo Nguyễn Lân biên soạn và những tài liệu viết về ông mà hiện nay đang lưu hành, cho nên độc giả rất dễ kiểm tra. Người lược thuật chịu trách nhiệm hoàn toàn trước công chúng. Sau đây là những kết quả của cuộc mạn đàm, được tóm tắt theo trình tự các phần trong bài gốc, với các tiểu mục ♦I, ♦II.  ♦III.                       

     ♦I. Cuộc mạn đàm ngoài dự  kiến:  nêu những tiền đề của cuộc mạn đàm: Trong vài chục năm gần đây, trên các sách báo chính thống  đã lưu hành hàng trăm bàì của nhiều người trong quần thể trí thức co danh phận ở nước ta ca tụng công lao và tài đức của NGND Nguyễn Lân. Họ chỉ nhìn thấy lớp trang sức bóng bảy mà không ai biết đến thực chất những thành tích ảo của ông nên đã viết những lời tán tụng sai sự thật, tạo nên nhiều điều ngộ nhận rất tai hai. Vì vậy, đã diễn ra một cuộc mạn đàm để  tìm hiểu sự thật về Nhà giáo này, dựa trên những chứng liệu mà mọi người đều dễ dàng tìm thấy.

     ♦II. Trả lời một số câu hỏi thiết thực:   giải đáp 4 câu hỏi, tìm ra 4 sự thật mà lâu nay hẩu như không ai nghĩ đến: 

  1. Trong các bài viết về Nhà giáo Nguyễn Lân hiện đang lưu hành trên báo chí chính thống (hơn 100 bài)  các tác giả  (hầu hết là những người có cương vị cao trong giáo giới) đều nhằm một mục đích là ca ngợi hết lời, chỉ cốt để  ca ngợi càng nhiều càng tốt, cho nên có nhiều  bài trùng  lặp với  nhau cả ý lẫn lời, lại xen  nhiều chi tiết khác với lời kể của chính Nhà giáo Nguyễn Lân, sai sự thật. Tính xác thực của loạt bài này rất thấp, nhiều dẫn liệu khong đáng tin cậy.
  2. Hầu hết mọi người lâu nay vẫn gọi ông Nguyễn Lân là Giáo sư, chính ông cũng tự xưng là Giáo sư. Một số tài liệu (ví dụ:  từ điển Wikipedia tiếng Việt trước  ngày24/6 /2014, hoặc bài  của  PGS Lê Khánh Bằng  trong Kỷ yếu Hội thảo Nhà giáo Nhân dân Giáo sư Nguyễn Lân – cuộc đời và sự nghiệp)  đã khẳng định rằng,  ông  Nguyễn Lân thuộc lớp người đầu tiên được phong học hàm Giáo sư, năm 1956. Sự thực thì ông  là Giáo sư tự phong, chưa bao giờ được Nhà nước phong Giáo sư.
  3. Ông Nguyễn Lân được gọi là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên soạn từ điển mẫu mực, với 42 tác phẩm đồ sộ.  Thực ra, trong số hơn 40 tác  phầm có dính tên ông, đa số là  những tác phầm rất nhỏ (dăm bày chục trang) và nhỏ (dưới 200 trang), có những quyển mang  tên nhiều tác giả,  trong đó  ông Nguyễn Lân chỉ có mươi trang, v.v, không có một tác phẩm nào ra hồn, đến nỗi năm ông tròn 90 tuổi, Nhà nước muốn trao giải thưởng cho ông nhưng không thể dựa vào một tác phẩm nào cả. Cuối cùng, ông cố cho ra 1 quyển  khá dày là Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2111 trang, xuất  bản năm 2000), trông có vẻ to vì được in bằng giấy dày, chữ to hơn và thưa hơn so với mọi cuốn tử điển thông thường, nhưng  cũng không thể gọi đó  là đại từ điển. Hơn nữa, quyển từ điển này là nơi tập trung tất cả mọi sai lầm trong “sự  nghiêp biên soạn từ  điển” của ông, số lượng sai lẩm có thể lên đến hàng ngàn, ảnh hưởng rất xấu đến việc dạy và học tiễng Việt cuar các thế hệ người Việt hiện tại và mai sau.
  4. Mọi người chỉ nhìn thấy  bề dày của cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam mà không khảo sát nó,  không nhận thấy vô số sai lầm  rất đáng sợ trong đó  nên ai nấy đều  cho rằng, đó là thành quả  vĩ  đại, là công trình sáng tạo tuyệt vời của một bậc đại trí thức siêu đẳng chỉ biết quên mình vì dân vì nước, miệt mại làm việc năm này qua tháng khác. Trên thực tế, nó chỉ là sự lắp ráp thô thiển của ba cuốn từ điển đã có sẵn. Trước hết, soạn giả lấy quyển  Từ điển tiếng Việt dày 1415 trang  của nhóm Văn Tân (gồm 13 người, trong đó có Nguyễn Lân)  làm “xương sống”,  sau đó ghép thêm hai quyển  khác  chứa đựng rất nhiều sai lầm khủng khiếp, đều của Nguyễn Lân, đó là  Từ diển từ và ngữ Hán Việt  (866 trang) và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam  (323 trang), rồi cộng thêm một số từ lấy  ở các từ điển khác nhưng được giảng lại theo cách đoán mò và nói liều vốn là thuộc tính của soạn giả. Vì vậy, việc “biên soạn” được thực hiên rất dễ dàng, có hiệu quả kinh tế rất “đậm”.          

    III.   Những sự thực đáng kinh ngạc về Nhà giáo Nguyễn Lân. Phần này cho thấy những phẩm chất và những hành vi phản sư phạm của Nhà giáo Nguyễn Lân, thể hiện qua 4 sự thật, với những bằng chứng cụ thể rất dễ tìm thấy:

  1. NGND Nguyễn Lân – người đã dày công làm tổn hại tiếng Việt.
          NGND Nguyễn Lân được coi là người “suốt đời bảo vệ sự trong sáng của Việt”. Chính ông cũng tự khẳng định vai trò ấy của mình một cách đầy tự tin và tự hào. Để thể hiện vai trò ấy, ông  dốc sức biên soạn các thứ từ điển về tiếng Việt. Việc “chú gíải từ tố’ và “giải thích từ nguyên” (của các từ có gốc Hán)  được ông coi là nét đặc sắc nhất, hơn hẳn các từ điển đã có từ trước. Các  Giáo sư  Lê Trĩ Viễn, Vũ Khiêu, cùng vô số Giáo sư, tiến sĩ, nhà văn, nhà báo khác đều coi đây là cống hiến vô cùng to lớn và đặc sắc của ông,  thể hiện tài năng, trí tuệ kiệt xuất và tâm huyết của  một vị  đại trí thức đối với đất nước, đối với tiếng Việt. Nhưng, qua vô số ví dụ cụ thể, chúng tôi đã chứng minh được rằng,  ông phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng nhất do thiếu kiến thức cơ bản, do không có năng lực tra cứu, do không đọc được chữ Hán, v.v. thậm chí,  không phân biệt được từ tố với âm tố và cũng chưa hiểu thế nào là từ nguyên.  Ông chỉ quen  đoán mò và  nói  liều nên đã phạm hết dạng sai lầm này đến dạng sai lầm khác
  2. NGND Nguyễn Lân đề ra những yêu cầu rất khắt khe đối với người thầy giáo, nhưng chính ông lại chưa nắm vững những kiến thức ở bậc  trung học.
         Được coi là một nhà sư phạm mẫu mực kiêm  học giả thông kim bác cổ, NGND Nguyễn Lân đòi hỏi người thấy giáo XHCN phải học tập, rèn luyện, phấn đấu không ngừng về mọi phương diện. Theo ông, người thầy giáo XHCN, ngoài việc học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, kiên định lập trường cách mạng, quan điểm giai cấp, học tập tác phong, đạo đức của Hồ chủ tịch, còn phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn của mình.
    Trong quyển Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960), ông viết: “ Nếu dạy một mà không biết mười thì ít nhất người thầy giáo cũng phải biết hai, ba chứ dạy bài nào mà chỉ biết bài ấy thì thực là nguy hiểm, vì không những chẳng giải đáp được thắc mắc của học sinh mà lại còn dễ dàng nói sai sự thật và phản lại khoa học. Ta nên nhớ rằng mỗi lời thầy giáo nói ra là bốn, năm chục học sinh chú ý nghe; thầy dạy một điều sai là bốn năm chục bộ óc bị đầu độc; như thế thì không những đã chẳng dạy được gì thêm, lại còn khiến học sinh  có những khái niệm không đúng cần phải gột rửa đi nữa. Ngoài bộ môn mình phụ trách, người thầy giáo xã hội chủ nghĩa còn phải nắm được các bộ môn khác nữa: tối thiểu, trình độ văn hóa phổ thông của người thầy giáo, về mọi ngành tri thức, phải không được thấp hơn trình độ học sinh ở cấp mình giảng dạy. Thí dụ, một giáo viên  về Việt văn ở lớp tám ít ra cũng phải nắm được những bộ môn khoa học tự nhiên của cấp III; có như thế thì khi giảng dạy Việt văn   mới có thể đưa ra những dẫn chứng cụ thể”. Cứ theo lời ông thì ai cũng nghĩ rằng, kiến thức của ông sâu rộng lắm, cao siêu lắm.  Khốn thay, ở  quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam (công trình của ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước),  người ta dễ dàng tìm thấy ngay vài chục từ ngữ thuộc các lĩnh vực toán học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý, lịch sử, văn học được sử dụng trong chương trình trung học mà bị soạn giả Nguyễn Lân giải thích sai hết, tỏ ra không  hiểu gì cả. Kiến thức của Nhà giáo Nguyễn Lân về mọi lĩnh vực khoa học thường thức chưa đạt đến trình độ trung học, vậy thì ông không thể dạy bất cứ môn nào ở bậc trung học.
  3. NGND Nguyễn Lân chỉ quen dạy dỗ người khác nhưng không biết chỗ yếu kém của mình nên đã sa đà vào việc “biên soạn” từ điển, đầu độc tiếng Việt.
         Nhà giáo Nguyễn Lân có những lời dạy về “đạo làm thầy”  rất chí lý. Ông đã từng răn dạy con dâu:
    « Con làm cô giáo thì phải nhớ là dù một chữ chưa hiểu cũng phải đọc, phải hỏi cho thật hiểu mới được dạy cho học trò, óc trẻ con như  trang giấy trắng, con vẽ sai lên đó làm sao tẩy sạch được ». Con dâu của ông kể tiếp : « Rồi ba giảng giải, muốn tìm hiểu một vấn đề gì thì phải hiểu cả lịch sử, cả hoàn cảnh cụ thể của nó… ». Một lần khác, ông đã căn dặn con trai (là một phó Giáo sư) : Cái khó nhất trong cách đối xử ở đời là biết mình đang ở vị trí nào. Con đừng quên rằng, một người giỏi lắm thì cũng đi sâu được một hai chuyên môn. Vì vậy, phải luôn coi người khác là thầy của mình về những chuyên ngành khác”. Trong sự nghiệp “trồng người”, hẳn là ông đã  nhiều lần dạy học trò bằng những câu như thế, mà  ta có thể quy thành nguyên tắc: Không được dạy những điều mà mình chưa hiểu rõ ; muốn vậy thì phải biết rõ  phạm vi kiến thức của mình. Tiếc thay, ông chỉ quen dạy người khác nhưng không biết răn mình, không hề biết mình đang ở vị trí nào . Bởi vậy, mặc dầu không đọc được chữ Hán, ông vẫn tin rằng, nhờ có kinh nghiệm lâu năm nên mình thừa  sức hiểu hết các từ ngữ tiếng Việt có gốc Hán, thế là ông biên soạn cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt (nhưng phải tránh việc thể hiện chữ Hán), xuất bản năm 1989. Tuy dung lượng của nó chỉ bằng một phần ba so với cuốn Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh (lưu hành từ năm 1932) nhưng  lại chứa đựng nhiều trăm sai lầm,  vậy mà được GS Lê Trí Viễn  đánh giá là “một công cụ tra cứu rất quý không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của các từ ngữ Hán – Việt trong tiếng Việt hiện nay”.  Lời ca tụng đó đã  biến  quyển từ điển tồi tệ này thành của quý,  khiến soạn giả ngỡ rằng mình là người duy nhất đủ sức  đảm đương sứ mạng  “gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt”. Thế là, liên tiếp trong mấy năm sau đó, ông sản xuất thêm  ba cuốn nữa là Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển tục ngữ thành ngữ  Pháp Việt,Từ điển tục ngữ  thành ngữ Việt Pháp. Càng  ngày, “uy tín học thuật” của ông càng lên cao trong đám người có bằng cấp và chức vị nhưng lười đọc và ít suy nghĩ. Người ta chỉ chú ý đến tên sách chứ chẳng mấy người đọc sách và hiểu sách nên không ai biết rằng, tác giả của chúng  không những mù tịt về Hán ngữ mà vốn liếng tiếng Việt cũng rất nghèo, thậm chí, không phân biệt được đâu là thành ngữ, đâu là tục ngữ.  Khi đã ngoài 90 tuổi, ông bèn tập hợp tất cả mọi từ ngữ tiếng Việt trong cả bốn cuốn, gộp thêm cuốn Từ điển tiếng Việt của nhóm Văn Tân (gồm 13 người, trong đó có ông) để tạo thành cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, với hàng ngàn sai lầm thuộc mọi chủng loại: về chú giải từ tố, về giải thích từ nguyên, về thành ngữ, tục ngữ, về tri thức khoa học, về lỗi chính tả, v.v..

          Trong lĩnh vực biên soạn từ diển, NGND  Nguyễn Lân thực sự là người yếu kém nhất, với những lỗ hổng kiến thức không thể khắc phục.
  4. Ví dụ duy nhất về “tầm cao trí tuệ” của Nhà giáo Nguyễn Lân đã góp thêm chứng cứ  để khẳng định điều ngược lại.
       
    Trong hàng trăm bài viết để ca ngợi tài năng và trí tuệ hơn người của Nhà giáo Nguyễn Lân, chỉ có một bài duy nhất (của một vị PGS TS) nêu ra một ví dụ để làm bằng chứng về cái “trí tuệ siêu phàm” ấy.  Xin kể tóm tắt câu chuyện sau đây:
         Tại khu mộ của Nguyễn Trường Tộ, có hai câu (người ta cho là đôi câu đối) bằng chữ Hán khắc nổi, vốn là: Nhất thất túc thành thiên có hậnTái hồi đầu thị bách niên thân (Nghĩa là: Một lần sẩy chân, trở thành mối hận ngàn đờiQuay đầu  nhìn lại, đã là cái thân trăm năm).  Lâu ngày, chữ thân (nghĩa là thể xác, là thân thể) bị sứt mẻ hết nhưng  nhiều người dân không biết chữ Hán vẫn còn nhớ  đấy là chữ  thân.  Những người “có học” thì đoán đó là chữ cơ (nghĩa là cơ nghiệp, cơ đồ). Vị PGS TS nọ bèn thỉnh giáo Thầy Nguyễn Lân và đã được Thầy phán truyền: “Vế trên của câu đối là hận (ân hận) – một từ chỉ sự trừu tượng, thì vế dưới đối lại phải là một từ có tính chất cũng trừu tượng, cho nên dùng chữ (cơ đồ) là chuẩn xác và hợp lý hơn là chữ  thân (thân thể)”.  Rồi ông PGS TS bình luận:  Rõ là đầy sức thuyết phục Tôi nhớ mãi câu nói cảm ơn của tôi khi đó: Thưa thầy! đúng là “Nhất tự thiên kim” vậy.

          Người viết bài “Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân” cho rằng, lý lẽ của Thấy Nguyễn Lân rất khó chấp nhận.  Cái chữ  bị sứt  kia phải là chữ thân mới hợp với ý than thân trách phận  ở câu trước đó. Nhất thất túc thành thiên cổ hận Tái hồi đầu, thị bách niên thân. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì ôm hận ngàn đời. Ngoái đầu nhìn lại thì mình chỉ còn cái thân già yếu . Như thế mới  đúng với tâm tư của người có hoài bão lớn nhưng “lỡ thời”. 
          
    Nếu thay chữ thân bằng chữ cơ, nghĩa là cơ nghiệp, là sự nghiệp, thì sẽ sự thể sẽ là:  Nhất thất túc thành thiên cổ hận.  Tái hồi đầu, thị bách niên cơ. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì phải ôm hận mãi mãi. Ngoái đầu nhìn lại thì mình đã có cơ nghiệp trăm năm . Như vậy thì cái sự “thất túc” kia không gây nên hậu quả gì ghê gớm, chẳng đáng phải mang hận ngàn đời.
           Kết quả khảo cứu của chúng tôi đã xác nhận rằng, hai câu ấy phải là: Nhất thất túc thành thiên cổ hận
    Tái hồi đầu, thị bách niên thân. Đây là hai câu thơ cuối cùng trong một bài thơ thất ngôn bát cú  có xuất xứ khá ly kỳ, liên quan đến một số học giả nổi tiếng thời nhà Minh và nhà Thanh.
            Chúng ta lại có thêm một bằng chứng xác thực cho thấy  trình đô học vấn non kém và thòi quen nói liều của NGND Nguyễn Lân.
         Trên đây là bản tóm lược 8 sự thật về NGND Nguyễn Lân mà tác giả đã khảo chứng khá kỹ càng trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về GS Nguyễn Lân. Hiện nay, bài này đã được đăng lại ở một số Blog khác ngoài Blog Quê choa. Quý vị đọc giả nào có nhu cầu đọc toàn văn bài này, có thể tìm thấy một cách dễ dàng theo tiêu đề của bài hoặc theo  các địa chỉ sau đây:

lemanhchien41.blogspot.com    và    Lê Mạnh Chiến – Blogger


II. 
Trả lời thư của độc giả  Yên Duyên Hương

       Trong bài Góp phần tìm hiểu sự thật về Giáo sư Nguyễn Lân, ở đoạn trả lời câu hỏi 2 (phần II. Trả lời một số câu hỏi thiết thực, hỏi về việc Nhà giáo Nguyễn Lân có được nhà nước Việt Nam phong học hàm Giáo sư hay không), tác giả  đã chứng minh:  NGND  Nguyễn Lân  chưa bao giờ được nhà nước phong chức danh Giáo sư  như lâu nay mọi người vẫn nhầm lẫn. Mở đầu việc khảo chứng điều này, tác giả viết:

       Trong Quyết định 162/CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 11 tháng 9 năm 1956 về việc phong chức danh Giáo sư cho 29 Nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu (trong đó có các ông Tạ quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, v.v.), có tên những người sau đây: 


      Quyết định 162/CP  ra đời khi Nhà nước sắp xếp lại các cơ sở Đại học đã có từ trước và mở thêm một số trường Đại học mới, ban đầu, có 6 trường vào  năm 1956 (gồm có: Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp,  Đại học Y – Dược, Đại học Nông Lâm, Đại học Bach khoa,  Đại  học Kinh tế - Tài chính). Để trao trọng trách cho các  nhà khoa học hàng đầu trong công tác tổ chức và giảng dạy ở các trường Đại học mới được thành lập, Chính phủ đã phong học hàm Giáo sư cho 29 người kể trên. Quyết định này  được ký và công bố trong  tháng 9 năm 1956. Đây là lần phong Giáo sư đầu tiên của Nhà nước ta. Từ năm 1980 trở đi mới có những đợt phong học hàm Giáo sư tiếp theo.

     Thế nhưng, một số độc giả tra cứu trên mạng Internet (ví dụ, theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt, tại mục từ Giáo sư Việt Nam.)  hoặc  nguồn tài liệu nào đó, lại cho rằng, Quyết định này được ký ngày 11 tháng 9 năm 1976 (chứ không phải là năm 1956 như tác giả đã viết) và cho rằng, sự  khảo chứng của tác giả là “thiếu chính xác”. Từ đó, họ  coi sự “thiếu chính xác” ấy  là cơ sở  để đặt vần đề “nghi vấn” mọi kết quả khảo chứng khác của tác giả.  

        Về vấn đề này, tác giả khẳng định một lần nữa:  Quyết định 162/CP về đợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên ở Miền Bắc Việt Nam được ký ngày 11/9/1956, và chỉ có thể là năm 1956 chứ không thể là 1976 . Tác giả cũng không hề bỏ sót tên NGND Nguyễn Lân trong danh sách những người được phong học hàm Giáo sư, vì ông chưa bao giờ được phong Giáo sư.

       Về việc các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu đã được phong học hàm Giáo sư từ trước năm 1958 thì chính Nhà giáo  Nguyễn Lân cũng đã nói đến nhiều lần.  

         Trong cao trào “đấu tranh chống “bọn  phản động Nhân văn – Giai phẩm” hồi giữa năm 1958, Nhà giáo Nguyễn Lân là một người rất hăng hái, kiên định lập trường của giai cấp vô sản, có thành tích rất nổi bật trong cuộc đấu tranh quyết liệt này. Lập trường cách mạng của ông đã thể hiện rõ trong bài Trường Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai : Trương Tửu và Trần Đức Thảođăng trên báo Nhân dân (trang 3) số ra ngày Chủ nhật, 18/5/1958. Trong bài báo này, ông Nguyễn Lân đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, các ông Trần Đức Thảo, Trương Tửu lúc bấy giờ Giáo sư

       Nhà giáo Nguyễn Lân viết:

 ..... Chính vì Trương Tửu và Trần Đức Thảo có manh tâm chống Đảng, chống chế độ nên trong hai năm nay, họ đã gây nên ở trường Đại học sư phạm một không khí nặng nề, khó thở. Họ là Giáo sư, là chủ nhiệm khoa, nghĩa là những người có cương vị trong hội đồng lãnh đạo của nhà trường. Nhưng thực ra họ luôn luôn tìm cách biến những buổi họp hội đồng lãnh đạo thành những cuộc cãi vã, thành những dịp để họ công kích ban giám đốc, công kích các đảng viên. Cho nên trong các buổi họp hội đồng lãnh đạo, ít khi người ta đi đến đượcnhững kết quả cụ thể về xây dựng chuyên môn, xây dựng tổ chức, mà phần lớn thời gian chỉ là để giải quyết những vấn đề tủn mủn, vụn vặt do họ nêu lên hoặc là để họ gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ nhà trường. Có người đã cho rằng Tửu và Thảo luôn luôn dùng cái thủ đoạn “đảo nghị” mà nghị sĩ Pác-nen đã dùng ở nghị viện nước Anh hồi cuối thế kỷ thứ 19, để hội đồng lãnh đạo nhà trường không làm trọn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó cho.
       Không những Tửu và Thảo chĩa mũi dùi vào các đảng viên mà họ thường mạt sát với những lời sống sượng, thô bạo, họ còn tìm cách dèm pha tất cả những người ngoài Đảng không ăn cánh với họ. Riêng đối với những kẻ nghe theo họ thì họ đề cao, tâng bốc, đòi cho được hưởng quyền lợi nọ kia. Với cái óc bè phái ấy, họ đã phá hoại tinh thần đoàn kết rất cần thiết cho việc xây dựng nhà trường.
       Thái độ hung hăng, phá phách của Tửu và Thảo ở trường Đại học sư phạm có phải là do sự bất mãn hay không? Chúng tôi thiết nghĩ họ không có lý do gì bất mãn cả, vì Đảng và Chính phủ đối đãi với họ thật là đã quá hậu.
       Nhiều người đã ngạc nhiên không hiểu vì sao Trương Tửu mà có thể là Giáo sư đại học được. Không những y có cái quá khứ chẳng hay ho gì, mà ngay đến cái vốn tri thức của y cũng rất là nông cạn, như  người ta đã phân tích nhiều lần trên báo chí. Ấy thế mà Tửu vẫn được làm Giáo sư trường Đại học sư phạm thì còn bất mãn nỗi gì?
........................

      Phải chờ đến khi đã học tập, anh em các tổ được giác ngộ, yêu cầu Tửu và Thảo phải kiểm thảo, rồi anh em góp thêm nhiều hiện tượng, chúng tôi mới hiểu được rằng Trương Tửu và Trần Đức Thảo không phải chỉ là những người trí thức bất mãn mà rõ ràng là những kẻ có mưu đồ xấu xa về chính trị. Trước những hiện tượng cụ thể anh em nêu lên mà Tửu và Thảo không thể chối cãi được, chúng tôi mới thấy được những tư tưởng phản động có thể hạ phẩm giá con người đến mức độ nào. Một số sự việc đã khiến chúng tôi phải sửng sốt không ngờ những người vẫn mệnh danh là đại trí thức như Tửu và Thảo mà có thể ti tiện, đê hèn như thế.
      
Quả đợt học tập hai văn kiện là một cơn gió lành mạnh đã thổi bạt được những rác rưởi của chủ nghĩa xét lại, đã lật được mặt nạ một số người trước đây người ta vẫn cho là thượng lưu trí thức, và riêng đối với trường Đại học sư phạm, đã nhổ được hai cái gai gây ra bao nhiêu vướng víu trong việc xây dựng nhà trường.

      
Gai đã nhổ rồi, không khí trường Đại học sư phạm trở nên khác hẳn: mọi người, mọi thành phần, sau đợt học tập, đã cùng đứng trên một lập trường, cùng thống nhất một ý chí, nên tình đoàn kết càng ngày càng chặt chẽ. Trên cơ sở của mối đoàn kết đó, mọi công tác của nhà trường như tổ chức, giảng dạy, học tập, lao động... đều tiến hành được đều đặn, với một đà phấn khởi chưa từng có.
       Từ nay nhà trường như một thân thể đã cắt được cái ung thư trở nên lành mạnh, khỏe khoắn. Nhất định trong một tương lai ngắn, trường Đại học sư phạm của chúng ta sẽ xứng đáng là một trường Đại học xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với nhiệm vụ đào tạo những người giáo viên tốt cho nền giáo dục phổ thông đương một ngày một vươn lên mạnh mẽ.

           Sau cuộc đấu tranh sôi sục, thực chất là  những đợt đấu tố khốc liệt mà  những ngưởi bị đấu tố không được mở miệng, kết cục là, các Giáo sư Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường đều phải vĩnh viễn rời khỏi bục giảng các trường Đại học và sống tiếp vài chục năm cho đến hết đời trong cảnh cùng quẫn và tủi nhục, luôn luôn bị theo dõi, rình rập.

         Năm 1976, các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu vẫn còn bị theo dõi, giám sát nghiêm ngặt. Tình trạng đó còn kéo dài thêm hơn mười năm nữa mới chấm dứt.  Câu chuyện sau đây do Giáo sư Trương Tửu (1913 – 1999) kể lại cho chúng tôi đã chứng tỏ điều đó.  

         Khi công cuộc “Đổi mới” diễn ra đi đôi với việc “cởi trói”, sự đối xử với các “phần tử Nhân văn Giai phẩm” bắt đầu bớt nghiệt ngã. Trước đó, đại đa số học trò cũ và  những người quen biết đều không dám  liên hệ với họ vì ai cũng sợ mang tai họa vào thân. Năm 1987, khi thấy việc tiếp xúc với các “thầy giáo Nhân văn Giai phẩm” không còn nguy hiểm như trước nữa, Giáo sư Nguyễn Đình Chú (là học sinh cũ của các thầy Trương Tửu, Trần Đức Thảo) bèn đứng ra tổ chức cuộc họp  đồng  môn để  kỷ niệm 30 năm ngày ra trường (1957 – 1987) và  kính mời các thầy đến dự, trong số đó, không thể  thiếu các Giáo sư từng  mắc đại nạn trong cuộc “đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm”. Thế nhưng vẫn có một học trò cũ  lúc bấy giờ (năm 1987) cũng là Giáo sư về Văn học Việt Nam hiện đại đã vội vã đi báo cáo với công an, đòi ngăn chặn cuộc gặp gỡ này.Tuy nhiên, tình hình bấy giờ  không còn căng thẳng như trước,  công an không để  ý đến “nguồn tin” mật báo này nữa.  Cuộc họp đã diễn ra một cách tốt đẹp, đầy xúc động. Đương  nhiên là vắng mặt ông Giáo sư kia.

        Việc các ông Trần Đức Thảo và Trương Tửu đã được Nhà nước phong chức danh Giáo sư đại học hẳn là không có gì phải nghi ngờ. Sau khi cả hai ông bị đuổi khỏi trường Đại học từ giữa năm 1958 cho đến ngày qua đời, chưa có một chỉ thị nào  xóa bỏ bản án quá nghiệt ngã và oan trái đối với họ.  Cả hai ông Trấn Đức Thảo và Trương Tửu bị coi là những tên tội phạm nguy hiểm. Cho đến những ngày diễn ra công cuộc “Đổi mới” kèm theo việc “cởi trói” ở nước ta, tình trạng đó mới được nới lỏng. Vậy, không có lý do gì để tin rằng các vị Trương Tửu, Trần Đức Thảo được Nhà nước Việt Nam phong học chức danh  Giáo sư vào năm 1976. Quyển sách GIÁO SƯ VIỆT NAM của Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước (Nxb Khoa học Xã hội ấn hành năm 2004) đã ghi nhận rằng,  trước năm 1980 việc phong chức danh Giáo sư chỉ được thực hiện một lần duy nhất, có 29 người được phong Giáo sư trong lần này. Bởi vậy, nếu căn cứ theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt hoặc một tài liệu nào đó để tin rằng đợt phong Giáo sư đầu tiên diễn ra năm 1976 là hoàn toàn sai lầm.

        Đến đây, chúng tôi đã trả lời xong hai điều thắc mắc trong thư của độc giả Yên Duyên Hương, cụ thể là: uĐợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên diễn ra năm 1956 chứ không phải năm 1976 như một số tài liệu đã viết sai. v Chúng tôi cũng không “bỏ sót tên ông Nguyễn Lân” khỏi danh sách những người được phong học hàm Giáo sư, vì ông chưa bao giờ được phong Giáo sư mà chỉ là Giáo sư tự phong.

        Độc giả Yên Duyên Hương còn đặt cho chúng tôi một câu hỏi khác nữa: Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào ?

        Tác giả xin phép mượn  một bài của nhà báo Phú Cường, trong đó nói về điều “ân hận” của Nguyễn Lân đối với Trần Đức Thảo để trả lời câu hỏi này của  quý vị.

        Trong bài Chuyện giờ mới kể về GS NGND Nguyễn Lân (trên báo điện tử Vietnamnet,  tại địa chỉ http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/2003/9/30157/ ) của Nhà báo Phú Cường viết nhân 49 ngày mất của GS NGND Nguyễn Lân, có đoạn cuối cùng mang  tiêu đề là Tôi có hai điều ân hận, như sau:

       Sống một cuộc đời trong sáng, không màng công danh, phú quý, dồn hết tâm trí vào việc "trồng người”, GS NGND Nguyễn Lân được Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu cao quý, hàng năm nhân dịp Tết cổ truyền, ngày Nhà giáo Việt Nam, các vị lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước đều đến thăm và tặng quà cụ. Cụ có lần tâm sự:

     “Cả đời tôi sống thanh bạch, không làm điều gì để trái với lương tâm, chỉ có hai điều tôi cứ ân hận mãi. Một là tôi được các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đến tận nhà thăm hỏi, nhưng do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà đáp lễ được. Điều thứ hai là, năm 1957, hồi tôi là Chủ tịch Công đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán ông Trần Đức Thảo, một nhà triết học rất uyên bác. Là nhiệm vụ trên giao, tôi không thể không thực hiện, mà trong lòng thấy ân hận vô cùng. Rất mừng, năm 2000 các công trình nghiên cứu của GS Trần Đức Thảo được Đảng và Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh”.

       Bây giờ hai cụ đều ở cõi vĩnh hằng, chắc rằng hai nhà trí thức lớn của nước nhà đều cười vui, thông cảm trong niềm kính trọng nhau.

Đọc những lời “gan ruột” của Nhà giáo Nguyễn Lân, thoạt tiên chúng ta  tưởng như đó là biểu hiện tấm lòng trung thực của một người “trót vì tay đã nhúng chàm”, nay lương tâm cắn rứt nên đã dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận những lỗi lầm mà trước đây mình đã phạm phải. Thế nhưng, tinh ý một chút thì sẽ thấy rằng, trong sự ân hận quá muộn màng này vẫn lấp ló sự thiếu chân thành nên ông vẫn cố đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan. Hơn nưa, trong hai điều “ân hận mãi” ấy, điều “ân hận” thứ nhất là ở chỗ, do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà đáp lễ các vị lãnh đạo Nhà nước từng đến nhà thăm hỏi ông ; rồi sau đó mới đến điều “ân hận” thứ hai, do phải hết lòng “phục tùng tổ chức” (phải dùng lời lẽ đao búa để xỉa xói, nhục mạ người bị đấu tố) nên phải lập thành tích xuất sắc trong việc kể tội và luận tội các ông bạn đồng nghiệp vốn có địa vị cao hơn mình. Điều “ân hận” thứ nhất thực ra  chỉ nên gọi  là sự áy náy, băn khoăn về tình cảm, nhưng đã được ông  nâng lên thành điều “ân hận” cao hơn hẳn sự dày vò, cắn rứt và  hổ thẹn mà  mọi người có lương tâm đều không thể tránh khỏi khi nghĩ đến thành tích đổ dầu vào lửa trong cuộc hãm hại đày đọa những người lương thiện.  Về thực chất và sức tác động, những lời buộc tội của chứng nhân kiêm quan tòa Nguyễn Lân chẳng khác gì những nhát gươm hay  những mũi tên tẩm thuốc độc để hạ gục nạn nhân. Vậy mà trong hai đồng nghiệp vô tội từng bị ông coi là kẻ thù phải trừng trị đích đáng, sau khi  họ đã mất hết tất cả mọi chỗ bấu víu về tinh thần và vật chất,  phải nếm đủ mùi đắng cay, tủi hận suốt  30 – 40 năm rồi ngậm ngùi về nơi chín suối, chỉ có  một người vừa được tuyên dương (coi như được minh oan) thì được ông nghĩ lại rồi lặng lẽ nói riêng  với  một nhà báo, tỏ ý  “ân hận”  sau khi người đó qua đời gần một chục năm.  Còn đối với người đồng nghiệp vô tội nhưng không (hay chưa) được tuyên dương thì ông không hề  “ân hận”.

Cũng không khó nhận ra trò ngụy biện của ông Nguyễn Lân. Bởi vì,  với tư cách “Chủ tịch Công đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán ông Trần Đức Thảo (...) Là nhiệm vụ trên giao, tôi không thể không thực hiện” nếu ông Nguyễn Lân thực sự là một con người nhân hậu và hiểu biết lẽ phải thì  ông sẽ làm nhiệm vụ “trên giao” đó một cách “cầm chừng” chứ không thể  hăng hái “toàn tâm toàn ý”  đấu tố đồng nghiệp với những lời chửi rủa, nhục mạ nặng nề như vậy. Trên thực tế, hồi bấy giờ không phải chỉ có một mình ông Nguyễn Lân phê phán các ông Trương Tửu và Trần Đức Thảo.  Nhưng có lẽ chỉ những lời lẽ đấu tố cay độc của Nguyễn Lân mới trở thành “áng văn bất hủ” mà đến đến tận bây giờ đọc lai, ai nấy đều rùng mình ghê rợn.

Nếu quả thật ông Nguyễn Lân thấy lương tâm cắn rứt, ân hận thì hẳn là  ông phải viết bài  công  khai  nói lên điều đó hoặc chính thức xin lỗi trước  mặt Trần Đức Thảo  chứ không phải đợi đến khi ông này qua đời gần muời năm  và được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ khi Nhà giáo Nguyễn Lân không hề ‘ân hân’ về việc đấu tồ, nhục mạ ông Trương Tửu. Khi ông Trần Đức Thảo còn sống vả còn mang thân phận một công dân hạng bét thì NGND Nguyễn Lân không có gí ân hận về việc làm thất đức và tàn nhẫn của mình. Chỉ sau khi ông Trần Đức Thảo qua đời gần 10 năm và trở thành người có địa vị cao hơn hẳn (là Giáo sư thật, được trao giải thưởng cao nhất, còn ông Nguyễn Lân thì vẫn là Giáo sư tự phong và được trao giải thưởng thấp hơn) thì ông Nguyễn Lân mới “ân hân”. Còn ông Trương Tửu thì chỉ mới thoát khỏi thân phận công dân hạng bét để gia nhập đội ngũ “phó thường dân” nên ông Nguyễn Lân không cần phải bận tâm về việc làm độc ác năm xưa.  Nếu cùng lúc, cả Trần Đức Thảo lẫn Trương Tửu đều được Nhà nước trao giải thưởng hoặc được tôn xưng thì cái điều  “ân hận” thứ hai của Nhà giáo Nguyễn Lân hẳn sẽ khác hơn.

Ông Nguyễn Lân không “ân hận” đối với ông Trương Tửu mà chỉ “ân hận” đối với ông Trần Đức Thảo vì về sau  ông Trần Đức Thảo trở lại địa vị cao hơn mình, chứ không phải vì kính trọng người tài cao học rộng. Mà địa vì hay “trọng lượng” của ông Trần Đức Thảo (nếu ông còn sống) thì chẳng thấm vào đâu so với các quan chức từ thứ trưởng trở lên. Bởi thế, đối với ông Nguyễn Lân, cái “lỗi” xúc phạm, chà đạp danh dự và nhân phẩm của ông Trần Đức Thảo còn nhẹ hơn nhiều so với cái “lỗi” chưa đi thăm đáp lễ các vị lãnh đạo cấp cao.

        Trở lại câu hỏi của độc giả Yên Duyên Hương:

       Chúng tôi được biết, sinh thời GS Nguyễn Lân đã có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo. Vậy, thực hư chuyện này là thế nào ?

        Tác giả  coi việc lý giải  hai điều “ân hận”  của NGND Nguyễn Lân đã là lời giải đáp cho câu hỏi  của quý vị:  Ông Nguyễn Lân chỉ “ân hận” vì sự “thất lễ” đối với những người  bề trên, những người có ngôi vị cao hơn mình.  Bởi vậy, sinh thời, GS Nguyễn Lân không bao giờ có lời xin lỗi ông Trần Đức Thảo, cũng như ông đã không hề “ân hận: đói với ông Trương Tửu. Đó là một sự thật hiển nhiên.

                                                   ●♦●                                                          

      “Trải qua một cuộc bể dâu”,  nhân cách và tài năng của các Giáo sư Trần Đức Thảo và Trương Tửu  tuy bị chà đạp và vấy bẩn suốt ba chục năm nhưng đến nay vẫn được người đời trân trọng và biểu dương. Họ vẫn để lại hình ảnh đẹp trong lòng mọi người Việt Nam có hiểu biết, có lương tri. Còn NGND Nguyễn Lân -- người luôn luôn hãnh diện với  cái hư danh Giáo sư tiếm xưng và đắc ý tự hào về những cuốn từ điển từng làm lóa mắt hàng loạt trí thức lười học và ít suy nghĩ, nhưng lại đầy rẫy những sai sót “để đời”, làm méo mó tiếng Việt, rất độc hại đối với tiếng Việt -- nay đã bắt đầu được người đời phán xét với đầy đủ tang chứng cụ thể để cảnh cáo và tẩy độc nhằm trả lại vẻ đẹp hồn nhiên cho tiếng Việt và ghi nhớ một giai đoạn suy đồi của nền văn hóa – giáo dục Việt Nam.

                                                                           Lê Mạnh Chiến

                                                           Email: lemanhchien41@yahoo.com



Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

Góp phần tìm hiểu sự thật về giáo sư Nguyễn Lân (1)

                                       Lê Mạnh Chiến lược thuật và khảo chứng
       Hàng năm, sau tết nguyên đán, nhóm bạn đồng môn trung học (cấp 2) hồi trước năm 1954 của chúng tôi thường tổ chức cuộc họp mặt đầu năm để nhó lại những kỷ niệm sâu đậm xa xưa trong thời kháng chiến chống Pháp, để đổi những suy tư hoặc chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn.  Năm nay, họ gặp nhau vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch tại nhà bạn Minh Trí ở quận Tây Hồ. Anh bạn này có ngôi nhà khang trang, có sân, có vườn, rất thích hợp với những cuộc họp mặt vui vẻ. Hơn nữa, anh lại là người ham đọc sách, có thói quen tra cứu kỹ lưỡng, có suy nghĩ độc lập, chịu khó mua sắm những quyển sách mà anh cảm thấy cần thiết cho sự hiểu biết của mình  nên anh có vốn hiểu biết khá sâu rộng.  Đến nhà anh, bao giờ chúng tôi cũng biết thêm nhiều điều lý thú và bổ ích. Nhờ thời tiết ấm áp nắng ráo nên số người tham dự đông hơn mọi năm. Vài người còn dẫn ông bạn già cùng đến họp, khiến cuộc gặp mặt năm nay càng thêm đông vui, gồm gần hai chục ông già trên dưới 75 tuổi, có người 80 tuổi. Buổi gặp mặt năm nay có  khác hơn mọi năm vì đã diễn ra một cuộc thảo luận khá sôi nổi về một chủ đề  liên quan đến văn hóa và giáo dục.
I. Cuộc mạn đàm ngoài dự  kiến

       Sau  một hồi chào hỏi, tay bắt mặt mừng, thông báo với  nhau về tình hình gia sự, về con cháu nội ngoại, ôn lại những kỷ niệm xa xưa,  nói lên những niềm vui nỗi buồn và đôi điều mong muốn ở tuổi già, chúng tôi cùng nhau ăn uống qua loa nhẹ nhàng, định sẽ đi thăm mấy ngôi chùa ở gần đấy  rồi chụp vài tấm ảnh chung để làm vật kỷ niệm, theo dự kiến. Bỗng bác M.H., một vị khách, vốn là cán bộ cấp cao của ngành giáo dục thông báo:
 Năm nay, có một sự kiện rất đáng mừng, nhất là đối với những người từng làm thầy giáo, đó  là việc Hội đông Nhân dân TP Hà Nội đã quyết định  sắp tới đây sẽ  lấy  tên Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân để đặt cho một đường  phố dài 2km tại nội thành. Giáo sư Nguyễn Lân là một thầy giáo nổi tiếng, một tài năng lỗi lạc, một đại trí thức uyên bác, một nhà sư phạm kiệt xuất. Điều đó thì hầu như mọi  người đều biết, nhưng có lẽ một số bác còn chưa biết những nét cụ thể về cuộc đời của người thầy giáo mẫu mực này, nên tôi  xin phép nhắc lại đôi nét về bậc “sư biểu” huyền thoại của chúng  ta để chia sẻ niềm vui chung.
       GS Nguyễn Lân sinh ngày 14 tháng 6 năm 1906 trong một gia đình nhà nông nghèo, hiếu học ở làng Ngọc Lập, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông  bước vào nghề dạy học rất sớm. Từ năm 1923 đến năm 1935, ông dạy học ở hai trường tư thục Hồng Bàng  vả Thăng Long. Ông đã từng thi  đỗ thủ khoa vào Trường Cao đẳng Sư  phạm Đông Dương  và cũng thi đỗ tốt nghiệp thủ khoa của trường này. Tại Trường Tư thục Thăng Long, cùng với các nhà giáo giỏi như  Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Bình ..., ông đã đào tạo được những tú tài xuất sắc cho Việt Nam. Từ  năm 1935 đến năm 1945,  ông dạy học  tại Huế. Năm 1946, ông  ra Hà Nội và dạy học tại Trường Chu Văn An. Khi kháng chiến bùng nổ, ông đưa vợ con lên vùng Việt Bắc và được cử làm Giám đốc giáo dục Liên khu 10 gồm 6 tỉnh: Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên (nay là Vĩnh Phúc), Tuyên Quang, Lào CaiHà Giang. Năm 1951, ông được cử đi dạy ở Khu học xá tại  tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1956, ông giảng dạy và làm chủ nhiệm Khoa Tâm lý- Giáo dục của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đến khi về hưu. Cùng với các nhà giáo nổi tiếng và xuất sắc khác như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Ngụy Như Kon-Tum, Đặng Thai MaiNguyễn Khánh Toàn..., ông thuộc lớp người đầu tiên được nhà nước Việt Nam phong Học hàm Giáo sư. Năm 1971, ông về  hưu ở tuổi 65. Từ đó cho đến khi qua đời, ông đã dành trọn thời gian cho việc  nghiên cứu và gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. Ông đã biên soạn nhiều  cuốn từ điển nổi tiếng  như: Từ điển  Pháp – Việt,  (1981), Từ  điển từ và ngữ Hán - Việt, (1989), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp – Việt (1993), Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000), v.v. Năm 1988, ông được  nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân.  Năm 2001,  ông được trao tặng Giải thưởng nhà nước về khoa học và công nghệ cho "Cụm công trình về giáo dục học và từ điển tiếng Việt".  Ngày 7 tháng 8 năm 2003, ông qua đời ở tuổi 97, tại Hà Nội
        Bầu không khí bỗng trầm lắng một lúc, hình như mọi người còn phải cân nhắc, suy nghĩ một lát, rồi bạn  Nguyễn Kỳ lên tiếng:
        ▌Những điều bác khách vừa kể, chúng tôi đều đọc được ở  một số sách báo  gần đây. Trong Diễn văn khai mạc Hội thảo Kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS Nguyễn Lân,  1906 – 2006,  GS TS Nguyễn Viết Thịnh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã  nói:   “.....Nhà giáo nhân dân  Nguyễn Lân  còn la một nhà văn, nhà thơ, một nhà biên soạn từ điển mẫu mực với 42 tác phẩm đồ sộ là những di sản rút ra từ những nghiên cứu, những định hướng  có giá trị về nhân cách trong sự phát triển nền giáo dục của nước nhà nhằm phát huy sức mạnh truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc với những tiến bộ về văn hóa giáo dục của thế giới.”
        Được biết, nhà giáo Nguyễn Lân đã biên soạn  10 quyển từ điển, gồm  5 quyển  được biên soạn “cùng tập thể” và 5 quyển là sản phẩm của một mình ông, trong số đó có hai quyển  quan trọng nhất, đó là Từ điển từ và ngữ Hán Việt (865 trang, Nxb TP Hố Chí Minh, 1989) và Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2111 trang, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2000). Kể về số lượng thì như thế cũng đã khá nhiều. Cuốn sách Từ  điển từ và ngữ Hán – Việt đã được GS Lê Trí Viến khẳng định rằng  “..., nó sẽ là một công cụ tra cứu rất quý không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của các  từ và ngữ Hán-Việt trong tiếng Việt hiện nay”.  Còn về cuốn Từ điển từ  và ngữ  Việt Nam thì GS Vũ Khiêu đánh giá rằng, “...trí tuệ và tâm huyết của tác giả  đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi”. Nhờ sự đánh giá rất cao như vậy cho nên cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam mới in xong trong tháng 3 năm 2000 thì cuối năm  đó nhà giáo Nguyễn Lân được xét tặng  Giải thường Nhà nước.
        Chẳng bao lâu sau đó,  khi  đọc bài Đọc lướt Từ điển từ và  ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân  (chỉ mới “đọc lướt” ba mục chữ cái A, B, C mà đã thấy 107 cái sai!) và bài  Những chỗ sai khó ngờ trong «Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân (cả hai bài đều của Huệ Thiên), rồi đến bài  Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt (của Lê Mạnh Chiến) viết về từ điển của Nguyễn Lân thì mọi người  vô cùng  kinh ngạc về thành tích làm hại tiếng Việt của một người vốn  được coi là  có công lao đặc biệt trong việc “gìn giữ và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt”. Độc giả chỉ cần gõ tên từng bài kia lên thanh tìm kiếm của Google thì sẽ tìm thấy ngay trên mạng Internet.  Gần đây  có thêm các loạt bài  của Hoàng Tuấn Công (Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân, mục chữ cái nào cũng có sai sót; Những sai lầm mang tính hệ thống trong “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân; Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển – GS Nguyễn Lân, và v.v.)  thì nỗi kinh hoàng càng tăng lên gấp bội. Phài khẳng định rằng, tính xác thực của các bài báo này rất cao, không thể chối cãi  được. Ngay khi còn sống, nhà giáo Nguyễn Lân đã có phản ứng gay gắt đối với bài Đọc lướt Từ điển từ và  ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân của Huệ Thiên nhưng không đưa ra được lý lẽ gì để phản bác. Còn ông  Nguyễn Lân Dũng  (con trai của ông Nguyễn Lân) thì hết sức bực tức  đối với bài Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt của Lê Mạnh  Chiến ngay từ phút đầu tiên khi ông ấy  đọc được trên báo Người Đại biển Nhân dân, nhưng từ đó đến nay đã gần chục năm trôi qua mà ông Dũng cùng những người có tâm trạng như ông ta không thể viết được một dòng phản bác, mặc dầu họ quá thừa quyết tâm và thời gian để làm việc đó.  Đối với trọng trách của một người thầy giáo, không có điều gì tệ hại bằng việc truyền bá những “tri thức” sai lệch, không có điều gì đáng chê trách bằng việc giảng dạy cho người khác những điều mà mình chưa học hoặc chưa hiểu biết kỹ càng. Từ điển về tiếng Việt là sách giúp mọi người hiểu rõ tiếng Việt, là sách tra cứu cho mọi người sử dụng tiếng Việt, gồm cả học sinh và các thầy giáo, các nhà văn, nhà báo, các nhà nghiên cứu, cả người Việt Nam và người nước ngoài. Vẫn biết rằng, biên soạn từ điển là một việc rất khó, nhưng cái khó nằm ở chỗ định nghĩa hoặc giải thích những từ ngữ, những khái niệm quá trừu tượng, quá khó hiểu chứ không phải nằm ở mọi từ ngữ hoặc mọi khái niệm đơn giản hay ở sự nhặt nhạnh các từ ngữ.. Hơn nữa, người biên soạn hoàn toàn chủ động trong việc đưa từ ngữ này vào từ diển hoặc tạm tránh từ ngữ kia, tùy theo thực lực của mình. Như vậy, người giỏi thì biên soạn được từ điển phong phú về số lượng từ ngữ, sâu rộng và chính xác về ngữ nghĩa; người chưa giỏi thì từ điển do ông ta  biên soạn ra  ắt phải nghèo nàn, hời hợt, không đáp ứng được yêu cầu của độc giả, nhưng vẫn có thể hạn chế được mọi sai sót. Nếu biết rõ năng lực của mình, biết đến đâu thì giảng đến đấy,  nhất thiết không được dạy bảo người khác về điều mà mình chưa biết rõ thì làm gì có chuyện sai nhan nhản trong một cuốn từ điển, ngay cả ở những từ ngữ rất bình thường, rất đơn giản. Thật đáng ngạc nhiên khi người ta  cố ý lảng tránh những lời cảnh báo về những cuốn từ điển có hại kia và cứ ca tụng một chiều, quá đáng,  bỏ qua sự thật, rồi nâng tác giả của những cuốn từ điển ấy thành bậc  “sư biểu”, tức  là  mẫu mực về học vấn và đạo đức ▌
        Mọi người tần ngần, dường như chờ đợi ý kiến của bác M.H. nhưng một lúc sau vẫn không thấy ông có ý kiến gì. Dường như ông không thể có ý kiến gì khác. Ông chủ nhà xin phép nói:
        ▌Trong 10 năm gần đây, đã xuất hiện  ba cuốn  sách chuyên đề về nhà giáo Nguyễn Lân. Thứ nhất là cuốn Vinh quang nghề thầy (NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004, 440 trang) do Nguyễn Lân Dũng tuyển chọn hoặc mời người viết bài. Thứ hai là cuốn Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân với sự nghiệp trồng người – Kỷ yếu hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh Giáo sư NL 1906 – 2006 (gọi tắt là Kỷ yếu I, 114 trang, do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành ngày 14 tháng 6 năm 2006). Thứ ba là cuốn  Nhà giáo Nhân dân Giáo sư  Nuyễn Lân – cuộc đời và sự nghiệp (gọi tắt là Kỷ yếu II, 220 trang, do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành tháng 12 năm 2013).
 
Trang bìa ba cuốn sách về Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân
       Chúng tôi đã đến các cơ quan xuất bản các tập sách  này để hỏi mua nhưng đều được trả lời rằng: “Đây là sách do gia đình GS Nguyễn Lân bỏ tiền ra in để biếu nhằm tuyên truyền trong phạm vi cần thiết chứ không bán”. Cả ba cuốn sách đều không ghi giá bán ngoài bìa. Ngay cà Thư viện Quốc gia cũng không có ba cuốn sách này. Thực chất, chúng là những bản xưng tụng trong nội bộ gia đình, là những nén hương của con cháu, của học trò, của  những người thân, những người ngưỡng mộ hoặc có quan hệ xa gần nào đó thắp trên bàn thở để tưởng niệm người quá cố. Bởi vậy, những  bài viết trong đó không cần tính chính xác, tính  chặt chẽ, miễn sao cứ viết thật hay thật đẹp về  người  đã khuất, không cần  dẫn chứng. Độc giả của chúng (là những người được tặng sách)  cũng là  những đối tượng được  chọn lọc kỹ càng.
        Người ta đã hiểu lầm khi coi những buổi tưởng niệm người quá cố với những bài tán tụng một chiều là những hội thào khoa học, coi các tập Kỷ yếu về các hội thảo ấy là những văn bản đánh giá, khẳng định  công lao, thành tích khoa học sáng ngời và phẩm chất vô cùng cao quý của người quá cố, rồi từ đó dựng nên một thần tượng để cho thế hệ hiện tại và mọi thế hệ mai sau tôn thờ. Điều đó đã dẫn đến Quyết định của HĐND thành phố Hà Nội về việc sử dụng tên Nguyễn Lân để đặt cho một con đường lớn ở trong thành phố. Sự thật thì ba tập sách kia về nhà giáo Nguyễn Lân hoàn toàn  không  đủ độ tin cậy để đánh giá  tài năng và cống hiến của ông.  Chúng tôi đã có ý định tổ chức  một cuộc thảo luận về vấn đề này trong đám bạn bè cùng  những người quan tâm, nhằm kiểm chứng những điều đã được viết trong đó.
       Hôm nay, nhân việc bác M.H. nhắc đến tin này,  bạn Nguyễn  Kỳ và tôi đã phát  biểu vài lời hé lộ chút ít sự thực. xung quanh huyền thoại về nhà giáo Nguyễn Lân. Lâu nay, tôi và một số bạn có mặt ở đây đã chú ý đến huyền thoại này  nên đã thu thập được khá nhiều chứng cứ quan trọng đủ để khẳng định được một số điều rất cụ thể.  Mong  rằng, sắp tới chúng ta sẽ có một cuộc họp mặt để thảo luận về câu chuyện này.▌
          Mọi người trao đổi  rì rầm một lúc. Vài phút sau, có người lên tiếng:
          - Vậy thì ngay hôm nay, ông chủ nhà cứ “thuyết trình” cho chúng tôi nghe rồi mọi người cùng mạn đàm có phải tiện lợi hơn không? Tôi  đề nghị mọi người  không đi thăm chùa chiền  nữa, để nghe thêm về câu chuyện hấp dẫn và bổ ích này. Các bác có đồng ý như vậy không?
        Có tiếng nói to:  “Chuyện đáng quan tâm như thế, bỏ dở sao đành”.
         Mọi người đồng thanh lên tiếng: “hãy cứ tiếp tục ”.
         Chủ nhà vui vẻ đáp :

       Nói là “thuyết trình” thì  có vẻ  trịnh trọng quá, chúng tôi không dám nhận lời.  Nhưng các bác có thể đặt câu hỏi, tôi và các bạn khác biết đến đâu thì  trả lời đến đấy, và mọi người chắc cũng có nhiều ý kiến đóng góp thêm. Cần phải nói ngay rằng, nhiều người đã nghe nói hoặc đã  đọc các bài viết về nhiều phẩm chất  tốt đẹp tuyệt vời của nhà giáo Nguyễn Lân (tuy không có dẫn chứng cụ thể), trong đó, phần  lớn đều  là  những lời ngoa truyền, khác xa sự thực nên  chưa mấy ai biết về những “mặt trái” rất đáng chê trách của ông cùng  những tai hại do chúng gây ra. Mặc dầu đã có một số tác giả vạch rõ rất nhiều sai lầm ngbiêm trọng trong các từ điển của nhà giáo Nguyễn Lân,  với đầy đủ dẫn chứng chặt chẽ, nghiêm túc và có trách nhiệm nên suốt nhiều năm qua không ai bác bỏ được, nhưng dường như những lời tán tụng một chiều vẫn che khuất  những tiếng nói trung thực.  Bởi vậy, ở đây chúng ta cần nói rõ  vè những sự thực còn ít người biết về  nhà giáo này, với những dẫn chứng rất cụ thể, “nói có sách, mách có chứng”.

       Thế là cuộc gặp mặt đầu năm của nhóm cựu học sinh  chúng tôi chuyển thành một cuộc  mạn đàm, tạm  gọi là  “Góp phần tìm hiểu về nhà giáo Nguyễn Lân”.  Ông chủ nhà ôm ra một chồng lớn gồm  một số quyển sách, nhiều tờ báo và nhiều bài báo in rời để giúp cử tọa  tìm hiểu và đặt câu hỏi. Mọi người vừa lắng nghe vừa háo hức chuyền tay nhau đọc lướt qua các tập sách báo để tìm hiểu  thêm.

II.
Trả lời một số câu hỏi thiết thực

      
Câu hỏi 1
:  
    Bác M.H. đã nói về những sự kiện quan trọng trong quãng đời học tập và giảng dạy của Nhà giáo  Nguyễn Lân,  trong đó có những điều gì chưa đúng hoặc thiếu chính xác?
    
Trả lời:
       ▌Bạn Nguyễn Kỳ vừa nói rằng, “Những điều bác khách vừa kể, chúng tôi đều đọc được ở  một số sách báo  gần đây”. Đó là sự xác nhận về việc bác M.H. đã nói rất trung thực theo những điều đã được ghi nhận trên sách báo. Chỉ có điều oái oăm là, các sự kiện đó được các tác giả viết đi viết lại mà vẫn không  ăn khớp với nhau, nhiều khi không đúng. Sau đây là một số ví dụ.

●  Tiểu sử Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân (ở sách  Vinh quang nghề thầy và cả ở Kỷ yếu I)   đã ghi: “Dạy học tại hai trường tư thuc  Hồng Bàng và Thăng Long (từ 1923 đến 1935)”, và “Chủ nhiệm khoa Tâm lý – Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ năm 1956 đến năm 1971 (về nghỉ hưu)
●  GS Nguyễn Đình Chú viết: “Năm 1932, Nguyễn Lân tốt nghiệp thủ khoa Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương và chính thức bước vào nghề dạy học, mở trường tư thục Thăng Long ở Hà Nội.” (Kỷ yếu II, trang 11) ;
●  PGS Lê Khánh Bằng viết : “Năm 1927, thầy đỗ khoa thi vào Trường Cao đẳng  Sư  phạm Đông Dương. Năm 1932, thầy dạy tại trường Thăng Long, Hà Nội “ ....Năm 1956, thầy về dạy tại Khoa Tâm lý – Giáo dục của trường ĐH SP HN , rối sau đó làm chủ nhiệm khoa. Thầy đã được phong học hàm Giáo sư (Kỷ yếu II,trang 89, 90 )
●  Th.S Vũ Thị Mai Hường viết: “Năm 1932, Nguyễn Lân tốt nghiệp  thủ khoa Trường Cao đẳng  Sư phạm Đông Dương và chính thức bước vào nghề dạy học. Ông đã bắt đầu với việc mở Trường Tư thục Thăng Long ở Hà Nội” (Kỷ yếu II, trang 208 -209 ).
●  Th.S Nguyễn Thúy Quỳnh viết: “Năm 1927, Nguyễn Lân đỗ thủ khoa vào Trường  Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Năm 1932, ông dạy tại trường Hồng Bàng, sau đó, làm giám học và dạy 2 môn Văn, Sử tại Trường Thăng Long. Cùng với các nhà giáo giỏi như Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Bình..., ông đã đào tạo ra những tú tài xuất sắc cho Việt Nam (Kỷ yếu II, trang 195). 
●  Bản tin của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (do Minh Vượng tổng hợp) viết:  “Năm 1927,  ông thi đỗ Thủ khoa vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Năm 1932, tốt nghiệp thủ khoa của trường, ông về dạy học tại Trường Hồng Bàng (Hải Phòng); sau đó làm giám học và dạy 2 môn Văn, Sử  tại Trường Thăng Long (Hà Nội). Tại Trường Tư thục Thăng Long, cùng với các nhà giáo giỏi như Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Bình ... ông đã đào tạo được những tú tài xuất sắc cho Việt Nam. Từ năm 1935 đến năm 1945 ông sinh sống tại Huế.”
 ● Từ điển Wikipedia tiếng Việt, trong bài tiểu sử nhà giáo Nguyễn Lân cũng viết: Năm 1927: Ông thi đỗ Thủ khoa vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương.     

       Rõ ràng là những điều bác M.H. đã nói về nhà giáo Nguyễn Lân đều đã được đăng tải trên các sách báo. Phải nói rằng, bác M.H. nhớ rất chính xác những điều mà mình đã đọc.
     Theo “Hồi ký giáo dục” do chinh nhà giáo Nguyễn Lân viết (mà những người có bài trong hai tập Kỷ yếu hội thảo I và II đều được phân phát từ trước) thì năm 1927, ông mới tốt nghiệp Trường Bưởi (tương đương  tốt nghiệp Trung học cơ sở, tức là lớp 9 hiện nay)  nhưng không  thi vào Cao đẳng Sư phạm, mà xin dạy tiểu học tại Trung Bắc học hiệu ở phố Lý Quốc Sư hiện nay (Vinh quang nghề thầy, trang 16) . Như vậy, năm 1923, ông mới tốt nghiệp tiểu học, chưa đi dạy học. Năm 1927, ông chưa thi vào trường Cao đẳng Sư phạm Đông dương nên không thể đỗ thù khoa trong kỳ thi vào trường năm ấy, như nhiều người đã viết. Năm 1929,  ông mới thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm (không thấy nói đỗ thủ khoa trong kỳ thi này), đến năm 1932 thì tốt nghiệp (ông viết là đỗ đầu trong nhóm 7 người học Văn) và ra dạy học tại Trường tư  thục Hồng Bàng  ở phố Hàng Trống  (trang 19). Dạy ở trường Hồng Bàng 2 năm, ông mới chuyển sang dạy Trường Thăng Long từ năm 1934,  đến năm 1935 thì ông bị chuyển vào Huế. Tuy nhiều tác giả viết rằng ông là  người  sáng lập Trường tư thục Thăng Long, nhưng không phải như vậy, vì trường này đã được thành lập từ năm 1929 (khi ông Nguyễn Lân mới bắt đầu vào học Cao đẳng Sư phạm). Sự thực là như vậy:  ngày 19/11/2009 trường này đã  làm lễ  kỷ niệm  80 năm thành lập, (xem: http://www.vietnamplus.vn/80-nam-thanh-lap-truong-tieu-hoc-thang-long/25765.vnp), có Phó chủ tịch nước là bà Nguyễn Thị Doan tham dự.
 
        Trong ”Hồi ký giáo dục”, Nhà giáo Nguyễn Lân cho biết, Trường Thăng Long lúc bấy giờ (năm 1934) chỉ được phép đào tạo học sinh đi thi Cao đẳng tiểu học (tương đương với Trung học cơ sở hiện nay) vì ông Hiệu trưởng Phạm Hữu Ninh chỉ có bằng Cao đẳng tiểu học. Trong niên khóa 1934 – 1935, trường này có tổ chức ôn thì cho hơn 30 học sinh chuẩn bị thi tú tài phần 1  và đã có 7 người thi đỗ. Những học sinh này đều học ở các nơi khác là chính, chỉ nhờ các thầy ở Trường Thăng Long kèm cặp thêm. Sự thi đỗ hay trượt là do sức học của họ là chính, không thể nói là do Trường Thăng Long đào tạo, càng không thể nói là do thầy giáo Nguyễn Lân đào tạo.

        Cũng theo “Hồi ký giáo dục”, đến năm 1965, Trường Đại học  Sư phạm Hà Nội mới có Khoa Tâm lý – Giáo dục. Nhà giáo Nguyễn Lân làm Chủ nhiệm khoa đầu tiên, từ  năm 1965 đến năm 1971 chứ không phải từ  năm 1956 đến năm 1971 như đã ghi trong tiểu sử. Trước năm 1965, ông làm tổ phó Tổ Tâm lý – Giáo dục. Thầy giáo Nguyễn hữu Tảo (1900 – 1966) - người mà ông Nguyễn Lân coi là bậc đàn anh về tuổi tác và về kinh nghiệm,  đã giữ chức Tổ trưởng cho đến khi về hưu (cuối năm 1964). Ông Nguyễn Lân viết: “Khi cụ Tảo xin về hưu, tôi lại trở thành tổ trưởng” (Vinh quang nghề thầy, trang 40).

       Hiện nay không có  bằng chứng để khẳng định tính xác thực của  “Hồi ký giáo dục”  này (ví dụ như các giấy tờ cũ của các trường  mà Nhà giáo Nguyễn Lân theo học, các bản tin trên báo chí đương thời,  v.v.)  nhưng đây là tài liệu duy nhất nói về những sự kiện trong quãng đời đi học và dạy học của ông, do chính ông viết ra,  cho nên, đó vẫn là tài liệu duy nhất đáng tin hơn cả.  Nhưng  người tuyển chọn bài, những người viết bài và những người biên tập ba quyển sách ca ngợi nhà giáo Nguyễn Lân  vẫn không cần chú ý đến những sự sai lệch, thiếu nhất quán ngay trước mắt như thế, điều đó chứng tỏ rằng họ không quan tâm  đến sự đúng hay sai, chỉ cần gán cho nhà giáo Nguyễn Lân thật nhiều thành tích và phẩm chất cao quý, theo hướng đã định sẵn . Do đó, có thể tin rằng, các bài viết để tán tụng nhà giáo Nguyễn Lân không thể phản ánh nhứng giá trị thực trong cuộc đời và sự nghiệp của ông
      
Câu hỏi 2:
        Bác M.H. còn nói rằng, nhà giáo Nguyễn Lân  cùng với các nhà giáo nổi tiếng và xuất sắc khác như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Ngụy Như Kon-Tum, Đặng Thai MaiNguyễn Khánh Toàn... thuộc lớp người đầu tiên được nhà nước Việt Nam phong Học hàm Giáo sư, và  chính nhà giáo Nguyễn Lân cũng luôn luôn tự nhận mình là Giáo sư nhưng nhiều cựu sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nồi  người vẫn nói rằng,  ông Nguyễn Lân chỉ là Giáo sư tự phong mà thôi.. Vậy, đâu là sự thực?

        Trả lời:
       ▌Nhà giáo Nguyễn Lân đã được hầu hết mọi người gọi là Giáo sư. Các nhà lãnh đạo như Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, các vị Bộ trưởng, Hiệu trưởng, v.v., đều gọi như thế. PGS Lê Khánh Bằng ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng khẳng định: “Thầy đã được phong học hàm Giáo sư”. Chính ông Nguyễn Lân cũng luôn luôn ghi danh hiệu Giáo sư ở các bài báo hoặc các quyển sách của mình..  
        Tiểu sử của nhà giáo Nguyễn Lân  ở từ điển  Wikipedia tiếng Việt  trên mạng Internet (hiển nhiên là đã được thân nhân của nhà giáo Nguyễn Lân hoàn toàn tán thành), được  viết như sau:
● Năm 1927: Ông thi đỗ Thủ khoa vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. (sai!)
● Năm 1932: Ông dạy tại Trường Hồng Bàng, sau đó làm giám học và dạy 2 môn văn, sử tại Trường Thăng Long. Tại Trường Tư thục Thăng Long, cùng với các nhà giáo giỏi như Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Bình... , ông đã đào tạo ra những tú tài xuất sắc cho Việt Nam.
● Từ năm 1935 đến năm 1945: ông sinh sống tại Huế
..........
● Năm1956: Ông về dạy tại khoa tâm lý giáo dục của trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông cùng với các nhà giáo nổi tiếng và xuất sắc khác như: Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Ngụy Như Kon Tum, Đặng Thai Mai, Nguyễn Khánh Toàn... là lớp người đầu tiên được nhà nước Việt Nam phong Học hàm Giáo sư.
●  Năm 2001: Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ cho "Cụm công trình về giáo dục học và từ điển tiếng Việt".

        Như vậy, rất nhiều người, rất nhiều tài liệu đã khẳng định rằng, nhà giáo Nguyễn Lân là một trong những người đầu tiên  đã được phong tặng chức danh Giáo sư, cùng với các trí thức nổi tiếng khác như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, v.v. Tuy nhiên, muốn biết nhà giáo Nguyễn Lân có được phong học hàm  Giáo sư hay không, chúng ta phải dựa vào các Quyết định chính thức của Nhà nước trong các lần phong tặng học hàm Giáo sư.
      
       Trong Quyết định 162/CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 11 tháng 9 năm 1956 về việc phong hàm giáo sư cho 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu (trong đó có các ông Tạ quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, v.v.), có tên những người sau đây:
       Quyết định này không ghi tên nhà giáo Nguyễn Lân. Như vậy, ông Nguyễn Lân   không được phong học hàm Giáo sư trong đợt đầu tiên (năm 1956) như mọi người vẫn ngoa truyền.  Ở các đợt phong học hàm Giáo sư  tiếp theo  (vào các  năm 1980,  1984,  1986, 1988, 1989, 1991, 1992, 1996, 1997,  2001, 2002, 2003) cũng không có tên nhà giáo Nguyễn Lân.
         Hầu như tất cả  các nhà giáo đã từng được Chính phủ mời  ra dạy Đại hoc hối cuối năm 1945 hoặc đã day các  lớp Dự bị Đại học trước năm 1954 đều được phong Giáo sư theo Quyết định 162/CP  năm 1956. Chỉ có hai vị trong số đó không được phong Giáo sư, đó là cụ Cao Xuân Huy và cụ Nguyễn Thúc Hào (đều quê ở Nghệ An), có lẽ vì họ xuất thân từ các gia đình địa chủ, quan lại. Nhà giáo Nguyễn Lân đến năm 1956 mới được cử vào bộ môn Tâm lý – Giáo dục ở Đại học Sư  pham Hà Nội, làm phụ tá cho nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo (1900 – 1966) cho đến hết năm 1964. Nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo (về hưu tháng 12/1964) chưa được phong học hàm Giáo sư, bởi vậy,  nhà giáo Nguyễn Lân không được phong Giáo sư là lẽ đương nhiên.                                                                                                                                                                                                                                                                                                 
      Năm 2004,  Nhà xuất bản Khoa học Xã hội  cùng với Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước đã xuất  bản  cuốn sách  GIÁO SƯ VIỆT NAM (khổ 19x27cm, 1132 trang; mỗi trang đều in ảnh, sơ yếu lý lịch và thành tích khoa học của một giáo sư) Tại trang 11 có DANH SÁCH CÁC GIÁO SƯ  ĐƯỢC NHÀ NƯỚC PHONG TRƯỚC NĂM 1980, gồm 29 người, sắp xếp tên theo thứ tự ABC, như sau:
  1. ĐÀO DUY ANH  (Sử học)
  2. TẠ QUANG BỬU (Toán học)
  3. ĐẶNG VĂN CHUNG (Y học)
  4. LƯƠNG ĐỊNH CỦA (Nông học)
  5. HỒ ĐẮC DI  (Y học)
  6. TRẦN VĂN GIÀU (Sử học)
  7. NGUYỄN HOÁN  (Hóa học)
  8. VŨ CÔNG HÒE (Y học)
  9. ĐỖ XUÂN HỢP (Y học)
  10. NGUYỄN VĂN HUYÊN (Sử học)
  11. ĐẶNG VŨ HỶ (Y học)
  12. ĐẶNG THAI MAI (Văn học)
  13. TRẦN ĐẠI NGHĨA  (Cơ khí)
  14. NGUYỄN XUÂN NGUYÊN (Y học)
  15. ĐẶNG VĂN NGỮ  (Y học)
  16. ĐẶNG VĂN NỘI  (Y học)
  17. TRƯƠNG CÔNG QUYỀN (Y học)
  18. PHẠM NGỌC THẠCH (Y học)
  19. TRẦN ĐỨC THẢO (Triết học)
  20. ĐINH VĂN THẮNG. (Y học)
  21. LÊ VĂN THIÊM (Toán học)
  22. PHẠM HUY THÔNG (Sử học)
  23. NGUYỄN KHÁNH TOÀN (Sử học)
  24. HOÀNG TÍCH TRÝ  (Y học)
  25. NGỤY NHƯ LON TUM (Vật lý)
  26. TÔN THẤT TÙNG  (Y học)
  27. TRẦN HỮU TƯỚC (Y học)
  28. NGUYỄN MẠNH TƯỜNG (Văn học)
  29. TRƯƠNG TỬU (Văn học)
        Danh sách này hoàn toàn phù hợp với danh sách kèm theo Quyết định 162/CP  kể trên.  Ở đó  không có tên nhà giáo Nguyễn Lân.
      Từ  trang 13 đến trang 1100 ghi tên các Giáo sư được phong trong các đợt tiếp theo đến năm 2003, cùng với tiểu sử và thành tích của từng người (mỗi vị chiếm  trọn 1 trang nhưng  một số vị không nộp hồ sơ thì được ghi tên chung trong một số trang, không có ảnh và không có tiểu sử). Gần hai chục trang cuối cùng là Danh sách 1094 Giáo sư được phong từ đợt đầu tiên năm 1956 đên năm 2003, sắp xếp tên theo thứ tự ABC. Trong số đó có một người tên là Nguyễn Lân nhưng ông này là Kiến trúc sư, sinh năm 1940, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế  chứ không phải là nhà biên soạn từ điển Nguyễn Lân.
        Trong đám thư từ chúc tết và mừng thọ nhà giáo Nguyễn Lân khi ông còn sống (in trong quyển Vinh quang nghề thầy do ông Nguyễn Lân Dũng tuyển chọn bài vở), người ta thấy  Cố thủ tướng  Phạm Văn Đồng đã gọi ông  là “Lão đồng chí”,  Cố  phó thủ tướng  Tố Hữu thì gọi ông là “thầy”, Cựu phó thủ tướng Nguyễn Khánh thì gọi ông là ‘bác”, chứ không gọi ông là “Giáo sư”.  Các  vị cựu lãnh đạo này rất cẩn trọng trong việc sử dụng ngôn từ. Họ không nhầm, không sơ hở trong cách xưng hô. ▌
       Một người lên tiếng:
        Như vậy, rõ ràng là nhà giáo Nguyễn Lân chưa từng được Nhà  nước  phong học hàm Giáo sư. Danh hiệu Giáo sư của nhà giáo Nguyễn Lân là  một danh hiệu  tự phong. Chính ông cùng các con cháu của ông  đã quảng bá danh hiệu đó một cách công  nhiên, đầy tự hào, coi như một danh hiệu chính thức  có thật.