Lê Mạnh Chiến
I. Nỗi băn khoăn
khó dứt
Trong một lần giở cuốn Từ điển Anh Việt (của Ủy
ban Khoa học Xã hội, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1975, 1960 trang, khổ 17 x 25cm), gặp từ swallow, người viết bài này không khỏi
ngỡ ngàng khi nhìn thấy những dòng sau đây:
swallow1 dt (động)
Chim nhạn . One swallow does not
make a summer = Một con nhạn không
làm nên mùa xuân.
(Từ swallow trong tiếng Anh có vài nghĩa khác nhau; swallow1 tức là nói
về nghĩa thứ nhất, là danh từ chỉ tên một loại dộng vật)
Nhóm từ does
not make a summer nghĩa là không làm nên mùa hạ chứ
chẳng phải là không làm nên mùa xuân. Hơn nữa, từ swallow trong tiếng Anh (là
danh từ chỉ tên chim) hoàn toàn đồng nghĩa với từ hirondelle trong tiếng Pháp và với từ chim én trong tiếng Việt. Vậy, câu “One swallow does not make a summer” phải được dịch sang tiếng Việt
là “Một con én không làm nên mùa hạ”.
Không ít người Việt Nam đã từng biết câu
ngạn ngữ “Một con én không làm nên mùa xuân”. Nó đã đến nước ta qua sách báo tiếng
Pháp, vốn là câu “Une hirondelle ne fait pas le printemps”. Ở cuốn Pháp Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh, từ hirondelle được dịch sang tiếng Việt là chim én, yến 燕, và sau khi nêu vài nghĩa phái sinh khác thì tiếp đến
câu Une
hirondelle ne fait pas le printemps, được giải nghĩa là: Lấy một việc chưa nên kết luận, quyết đoán. Trong từ điển Robert, tại mục từ hirondelle, câu ngạn ngữ này được giải thích một cách sáng sủa hơn:
un fait isolé, un seul exemple n’autorise pas de conclusion générale
(nghĩa là: một sự việc riêng lẻ, một ví dụ duy nhất không cho phép rút ra kết
luận tổng quát). Cũng có thể diễn giải rằng: không nên quá vội tin vào những
biểu hiện bề ngoài; một cá nhân đơn độc không đủ để thực hiện một mục
tiêu cao cả. Đây vốn là một câu danh
ngôn triết lý của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristote (384 – 322 tr CN) và đã
trở thành ngạn ngữ rất phổ biến ở các nước châu Âu và nhiều nước
khác, những nơi mà mỗi năm đều có một mùa xuân rõ rệt. Người Nga cũng có câu одна ласточка весны не делает; người
Trung Hoa thì nói rằng, độc yến bất
thành xuân 獨 燕 不 成 春, hoàn toàn tương ứng với câu
trong tiếng Pháp. Chim én di cư về phương nam để tránh rét, sang mùa xuân thì
trở về phương bắc, xuất hiện ở miền nam nước Nga và ở hầu khắp các nước Châu Âu
nhưng sang mùa hạ mới về đến nước Anh, nên câu ngạn ngữ này ở xứ sương mù cũng
khác một chút so với tiếng Pháp hoặc tiếng Nga.
Hẳn là các soạn giả của cuốn Từ điển Anh Việt kia đã biết rõ câu ngạn
ngữ tiếng Pháp nọ cùng với lời dịch ra tiếng Việt quá quen thuộc nên đành phải dịch
chữ summer (nghĩa là mùa hạ)
thành ra mùa xuân. Có thể thông cảm
với lời dịch sai này, nhưng một câu ví dụ nêu trong từ điển mà phải dịch sai một từ thì có nên hay không? Một
điều đáng băn khoăn hơn nữa là, họ đã dịch từ swallow (tương đương với hirondelle)
thành chim nhạn rồi đặt nó vào câu ngạn
ngữ “Một con nhạn không làm nên mùa xuân”. Đem câu này dán lên thanh tìm
kiếm của Google trên máy tính, độc giả sẽ không tìm thấy một văn bản nào viết
như thế, mà chỉ gặp rất nhiều văn bản có câu “Một con én không làm nên
mùa xuân” hay “Một cánh én không
làm nên mùa xuân”. Nghĩa là, không ai chấp nhận việc đổi ÉN thành NHẠN, bởi vì Nhạn và Én là hai loại chim khác nhau.
Ca dao đã có câu: Nhạn về biển bắc
Nhạn ơi/ Bao thưở Nhạn hồi để Én đợi trông. Việc đổi Én thành Nhạn
thì sai hoàn toàn, tệ hơn việc đổi Gà thành Vịt. Câu ngạn ngữ kia vẫn mãi mãi phải
dịch là Một con én không làm nên mùa
xuân.
II. Én và nhạn trong trong tâm thức người Việt
- Chim én – biểu tượng của mùa xuânĐối với mọi người Việt Nam, Én (hoặc Yến 燕, theo Hán ngữ) là một loại chim rất quen thuộc. Sắp đến mùa lạnh, chim én lặng lẽ rời khỏi “bản quán” để tránh rét, ít khi bay thành từng đàn. Chỉ đến mùa xuân ấm áp chúng mới rủ nhau lũ lượt về “cố hương” tạo nên biểu tượng của mùa xuân, và là hình ảnh hết sức quen thuộc trong tâm trí mọi người: Ngày xuân con én đưa thoi (Truyện Kiều). Người nông dân theo dõi cách bay lượn của chim én để “dự báo thời tiết”, và chim én đi vào câu tục ngữ: Én bay thấp, mưa ngập bờ ao / Én bay cao, mưa rào lại tạnh. (Theo sách Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, ở đoạn nói về Khí tượng và lao động sản xuất).Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn nhắc đến chim én ở một số câu thơ khác, với hình tượng chim én để tả tình tả cảnh mà thật khó dùng thứ khác để thay thế: Thiếp như con én lạc đàn (câu 2117); Xập xè én liệng lầu không (câu 2274). Chim én có miệng rộng, cằm bạnh, cho nên hàm én (trong Hàn ngữ là yến ham 燕頷) là một đặc điểm về tướng mạo toát lên vẻ uy nghiêm của một võ tướng. Ban Siêu (32 – 102, danh tướng thời Đông Hán) thì có cổ hùm hàm én (yến hạm hổ cảnh); Trương Phi (? – 221, dũng tướng thời Tam quốc) thì có râu hùm hàm én (yến hạm hổ tu). Cái hàm én của Từ Hải đã được Nguyễn Du nhắc đến hai lần trong Truyện Kiều: Râu hùm, hàm én, mày ngài (câu 2167) và Hãy còn hàm én mày ngài như xưa (câu 2274)Khi chim én được gọi là yến, lại đi liền với anh (chim vàng anh) thì thường để diễn tả quang cảnh đông vui nhộn nhịp, có khi mang sắc thái “trăng hoa”, như ở các câu trong Truyện Kiều: Gần xa nô nức yến anh (câu 45); Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh (câu 64); Quá chiều nên đã chán chường yến anh (câu 514); Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai (câu 944) Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh (câu 1098); hoặc: Điều đâu lấy yến làm anh (câu 955); Quyến anh rủ yến sự này tại ai ? (câu 1180).Chim én có mặt trong vô số bài hát mừng xuân. Nó đã là đề tài của các nhạc sĩ nổi tiếng. Chỉ cần kể tên một số bài như Cánh én tuổi thơ của Phạm Tuyên, Tạm biệt chim én của Trần Tiến, Mùa chim én bay của Hoàng Hiệp, Những cánh én mùa xuân của Nguyễn Hiền; Khi chim én về của Võ Công Anh … cũng đủ thấy chim én thân thiết với các nhạc sĩ như thế nào.Các nhà nhiếp ảnh và các họa sĩ không thể không chú ý đến chim én. Ở Trung Quốc, Xuân phong yến hỷ 春 風 燕 喜 (Én mừng gió xuân) là một chủ đề lớn trong hội họa suốt nhiều thế kỷ, nổi tiếng nhất về chủ đề này là tác phẩm của Lữ Kỷ 呂紀 (1477 - ?), họa sĩ lừng danh thời Minh. Loạt tranh này đã từng lưu hành ở nước ta. Hiện nay, một số bức tranh thuộc chủ để này đang được thêu hoặc in lại vì có nhiều người ưa chuộng.Thật khó tìm thấy một loại chim nào khác đi vào tâm thức người Việt sâu xa hơn chim En. Nó có mặt trong ca dao, tục ngữ và ở mọi lĩnh vực nghệ thuật khác như văn, thơ, nhạc, họa.2. Chim nhạn và bóng dáng của nó trong thơ caNhạn không gần gủi với con người như én. Nhiều người chỉ nghe nói đến chim nhạn nhưng không biết rõ về nó. Nhưng trong văn thơ và ca dao, sau chim én thì chim nhạn được nói đến nhiều hơn các loại chim khác. Bởi vậy, việc tra cứu trong sách vở để biết rõ về chim nhạn là điều cần thiết.a). Theo Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, Imprimerie REY CURIOL & CieSaigon, 1896:Nhạn = Thứ chim giống con ngỗng.b) Theo Từ điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài gòn, 1951:Nhạn = giống chim loài vịt trời.Nhạn tín = tin do chim nhạn đem tới (lấy tích Tô Vũ bên Tàu xưa sang sứ Hung- nô, bị đày, phải buộc thư vào chân chim nhạn để nhắn tin về cho vua Hán).c) Theo Việt nam tân từ điển, Thanh Nghị, Nxb Thời thế, Sài gòn, 1952Nhạn = chim thuộc loài vịt, cũng gọi là mòngNhạn tín = tin nhờ con chim nhạn đem đến (theo tích Tô Vũ bị đày, viết thư vào lụa buộcvào chim nhạn đưa về cho vua). Thơ có câu: Ngày sáu khắc nghe tin nhạn vắng .d) Theo Từ điển Việt Nam, Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trụ, Nhà sách Khai trí, Sài gòn, 1970.Nhạn = con mòng hay chim mòng, loại chim giống như vịt, hay bay xa:Nhạn về biển bắc nhạn ôiBao thuở nhạn hồi để én đợi trông (Ca dao)e) Theo Từ điển Việt – Pháp (Dictionnaire Annamite – Français), J.F.M. Génibrel,Imprimerie de la Mission à Tân Định, Saigon, 1898NHẠN 雁= Oie sauvage ( =Ngỗng trời)f). Theo Từ điển Việt – Pháp phổ thông, Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh – bảo, Saigon, 1950Nhạn = Oie sauvage ( =Ngỗng trời)g) Theo Việt – Pháp từ điển, Đào Đăng Vỹ, Nhà sách Nguyễn Trung, Saigon, 1970Nhạn (mòng) = Oie sauvage ( =Ngỗng trời)Ngày sáu khắc mong tin nhạn vắng (Cung oán)Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa (Kiều)h) Theo Hán – Anh song giải Tân Hoa tự điển (Tự điển Tân Hoa, giải thích bằng Hán ngữvà Anh ngữ), Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ty, Bắc kinh, 2000雁(鴈), 大 雁,鸟 名, 多 指 鴻 雁, 羽 毛 褐 色, 腹 部 白 色, 嘴 扁 平, 腿 短, 群 居在 水 边. 飞 时 排 列 成 行. 是 候 鸟. wild goose; goose, usu.hóngyan, any ofvarious brown and white-bellied aquatic birds with a flat bill and short legs, livingby waterside in groups, and flying in one-line flocks. It is migratory bird.Dịch: Nhạn = ngỗng hoang dại, thường chỉ hồng nhạn, là mọi loài thủy cầm lông nâu, bụng trắng có mỏ bẹt và chân ngắn, sống ven các vùng nước, thành từng đàn, bay theo từng nhóm thành một hàng. Đây là loại chim di cư..i). Theo Từ điển Wikipedia Hán ngữ và Anh ngữ trên mạng Internet thì Nhạn 雁 có tên Latin là Anser, loài tiêu biểu nhất có tên là Anser anser, tên tiếng Anh là Grey goose, Greylag goose (Ngỗng xám), có khi cũng gọi là Anser, nặng khoảng 2,5 – 4,1kg.Trong sách Chim Việt Nam tập I (Nxb Khoa học & Kỹ thuật, HN, 1975), tại trang 110, GS Võ Quý cho biết: loài Anser anser có tên tiếng Việt là Ngỗng trời (đừng nhầm với Thiên nga), trọng lượng 2,6 – 6,0kg, về mùa đông, loài này có nhiểu ở vùng đồng bằng gần bờ biển (về phía nam, đến Thừa Thiên).Như vậy, tất cả các từ điển ở nước ta từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1970 đã diễn giải về chim nhạn đúng như nghĩa của từ Nhạn 雁 trong Hán ngữ và phù hợp với ý nghĩa biểu tượng của nó trong thơ văn Việt nam. Đó là một giống chim thuộc họ Vịt (Anatidae), sắp đến mùa rét thì bay thành hàng dài xuống phương nam để tránh rét, kiếm ăn ở ven biển, ở ven sông, ở các hồ đầm hoang vắng. Xuất phát từ truyện Tô Vũ thời Hán, chim nhạn đã đi vào văn thơ Việt Nam với nghĩa bóng là phái viên đưa thư (như chú giải trong một số từ điển kể trên):
Nhạn =Ngỗng xám = Ngỗng trời Mây giăng ải bắc trông tin nhạn,Ngày xế non nam bặt tiếng hồng(Nguyễn Đình Chiểu, trong bài Xúc cảnh)Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.(Nguyễn Gia Thiều, trong Cung oán ngâm khúc)Thấy nhạn luống tưởng thư phong,Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng.(Đoàn Thị Điểm, trong Chinh phụ ngâm)Tin nhạn vẩn, lá thư bài,Đưa người cửa trước, rước người cửa sau(Nguyễn Du, Truyện Kiều)Nhiều khi chim nhạn là hình tượng thích hợp để đưa vào những câu thơ tả cảnh, tả tình, như Nguyễn Du đã mấy lần sử dụng trong Truyện Kiều::Buồn trông phong cảnh quê người.Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưavà:Phận bồ từ vẹn chữ tòng,Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.Hoặc như trong truyện thơ khuyết danh Bích câu kỳ ngộ
Những là én bắc nhạn nam,Cánh hoa mặt nước biết làm sao đây.Và cả trong những câu ca dao trữ tình, lãng mạn:Nhạn về biển bắc nhạn ơiBao thuở nhạn hồi để én đợi trông!Hay: Nhạn nam én bắc lạc bầyBiết bao giờ đặng duyên vầy ái ân3. Những nét tương phản giữa nhạn và énNhạn và én là hai loại chim khác nhau hoàn toàn về mọi đặc điểm, chúng tạo thành một cặp tương phản. Trước hết, về độ lớn của thân thể, chúng khác xa nhau, có trrong lượng chênh lệch nhau khoảng 100 lần. Loài nhạn nhỏ nhất cũng có trọng lượng từ 1,2 đến 1,6kg, còn loài én nhỏ nhất chỉ năng 10 – 20g; Loài nhạn lớn nhất có thể năng tới 6kg nhưng loài én lớn nhất chỉ nặng không quá 60g. Nhạn bay rất cao thành hàng dài thẳng tắp, trong khi én bay lượn rất thấp không theo hàng lối nào cả. Chim nhạn mò cua bắt cá dưới nước, còn chim én thì săn bắt muỗi và các loại côn trùng nhỏ bé trên không. Người ta thường thấy từng đàn chim nhạn trên trời vào mùa thu, khi chúng bắt đầu bay về phương nam để để tránh rét, nhưng lại được ngắm nhìn từng đàn chim én bay lượn về mùa xuân khi mùa rét đã trôi qua. Nhạn và én thật khó gặp nhau, dương như chùn luôn luôn ở hai phương trời cách biệt. Ở miền bác nước ta, cuối mừa thu, khi chim nhạn từ phương bắc bay về thì chim én (chịu rét kém hơn) đã phaỈ tìm đến nơi xa hơn, ấm hơn. Bởi thế cho nên, trong bải Cảm thu, tiễn thu, thi sĩ Tản Đà đã viết:Nhạn về én lại bay đi,Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.Giữa nhạn và én có những đặc điểm tương phản như vậy cho nên, trong thơ ca, mỗi khi nhạn và én cùng được nhắc đến trong một tình huống, chúng đều đứng ở những vị trí tương phản, ví dụ như trong các câu thơ: Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên; Nhạn về én lại bay đi hay: Những là én bắc nhạn nam, hoặc như trong ca dao:Nhạn về biển bắc nhạn ơi / Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông.và: Nhạn nam én bắc lạc bầy / Biết bao giờ lại duyên vầy ái ânIII. Chim én đã bị đổi tên thành chim nhạnTrong tất cả các từ điển Pháp -Viêt và Việt –Pháp lưu hành từ những năm 1970 về trước, từ Én trong tiếng Việt được dùng để dịch từ Hirondelle trong tiếng Pháp. Theo chiều ngược lại, từ Hirondelle được dịch sang tiếng Việt bằng từ Én, với sự nhất trí của mọi người. Đối với từ Swallow trong tiếng Anh cũng vậy, vì nó hoàn toàn tương đương với từ Hirondelle nên cũng luôn luôn được dịch sang tiếng Việt bằng từ Én. Nghĩa là: Hirondelle = Swallow = Én. Nhưng, có lẽ vì GS Lê Khả Kế (một nhà sinh vật học và một người biên soạn từ điển) chủ trương đổi tên chim Én thành chim Nhạn, khi ông khẳng định ràng Hirondelle = Swallow = Nhạn thì tất cả những người biên soạn từ điển tiếp sau đều phụ họa theo. Sau đây là những thí dụ cụ thể:
- Tất cả các cuốn Từ điển Anh- Việt và Từ điển Việt- Anh được biên soạn từ năm 1975 đến nay đều dịch swallow = chim nhạn, và ngược lại: nhạn = swallowCó thể kể một số cuốn như:a). Từ điển sinh học Anh- Việt, Nxb Khoa học & Kỹ thuật HN, 1876b). Từ điển Anh- Việt, Lê Khả Kế, Nxb Khoa học Xã hội, 1997c). Từ điển Anh -Viêt, Đại học ngoại ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997d). Từ điển Anh- Viêt, Phan Ngọc chủ biên; Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995e). Từ điển Anh -Viêt, Viện Ngôn ngữ học (Hồ Hải Thụy, Chu Khắc Thuật,Cao Xuân Phổ), Nxb TP Hồ Chí Minh, 1994f). Từ điển Việt – Anh, Viện Ngôn ngữ học (Đặng Chấn Liêu, Lê Khả Kế, Phạm Duy Trọng), Nxb TP Hồ Chí Minh, 1997g). Từ điển Việt - Anh , Bùi Phụng, Nxb Thế giới, HN, 1996
- Tất cả các cuốn Từ điển Phap - Việt và Từ điển Việt-Pháp được biên soạn từ năm 1975 đến nay đều dịch hirondelle = chim nhạn, và ngược lại: nhạn = hirondelleCụ thể, điều đó đã xẩy ra trong các từ điển sau đâya). Từ điển sinh học Pháp Việt, Lê Khả Kế, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1981b). Từ điển Pháp – Việt, Viện Khoa học Xã hội, Lê Khả Kế chủ biên, Nxb Khoa họcXã hội, Hà Nội, 1991c). Từ điển Việt –Pháp, . Viện Ngôn ngữ học, Lê Khả Kế, Nguyễn Lân, , Nxb Khoa họcXã hội, Hà Nội, 1989
- Các cuốn Từ điển tiếng Việt đều mô tả chim Nhạn đúng như chim Én mà chúng ta vẫn thấy:
a). Theo Từ
điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên,
(In lần thứ hai, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1977):
nhạn = loài chim trời thuộc bộ
sẻ, đuôi dài chẻ đôi, mỏ ngắn, thường làm tổ trên hang đá hay bay từng đàn về
vách đá
b).
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, (tái
bản nhiều lần):
nhạn = chim nhỏ di cư, cánh dài nhọn, đuôi chẻ đôi, mỏ ngắn, thường bay thành đàn
c). Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân,
Nxb TP Hồ Chí Minh, 2000:
nhạn = loài chim trời thuộc bộ sẻ, đuôi dài chẻ đôi,mỏ ngắn; Nhạn bay cao mưa rào lại tạnh, nhạn bay thấp
mưa ngập bờ ao; nhạn tín =
(Theo truyền thuyết, Tô Vũ đời Hán bị giam ở đất Hung-nô viết
thư buộc vào chân chim nhạn gửi về cho vua) Tin tức (cũ) .
d). Theo Đại từ điển tiếng
Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Văn
hóa – Thông tin, 1999:
nhạn = chim nhỏ, cánh dài nhọn, đuôi
chẻ đôi, mỏ ngắn, bay thành đàn
Trong tất cả các từ điển về tiếng Việt
từ cuốn đầu tiên (Đại Nam quấc âm tự vị,
cuối thế kỷ 19) đến mọi cuốn khác in trước những năm 60 của thế kỷ 20 thì Nhạn chính
là Ngỗng trời. Nhưng sau đó, trong
bốn quyển từ điển vừa kể (3 quyển do Viện Ngôn ngữ học bảo trợ) thì Nhạn lại là loại chim mà trước đây có
tên là Én. Lời diễn giải trong các quyển ấy, kết hợp với sự xác nhận nhạn = hirondelle = swallow
trong các cuốn từ điển Anh –Việt, Việt –Anh, Pháp – Việt, Việt – Pháp, cộng với
việc đổi Én thành Nhạn trong các câu danh ngôn và ca dao
(như GS
Nguyễn Lân và GS Lê Khả Kế đã làm) đã xác nhận điều đó. Nghĩa là loại
chim mà bao đời nay người Việt vẫn gọi là Én
thì nay đã được các nhà ngôn ngứ học đổi tên thành Nhạn.Tuy nhiên, hình như bây giờ Nhạn không còn là biểu tượng của
mùa xuân nữa vì không thấy từ điển nào nhắc đến điều đó.
4. Các sách chuyên khảo về Chim
Việt Nam hiện có đều không nói đến chim én và không hề nhắc đến nó mặc dầu đó là loài chim hết sức quen
thuộc ở nước ta. Cụ thể, các sách đó là
a).
Chim Việt Nam – Hình thái và phân loại, Võ
Quý, Nxb Khoa học & Kỹ thuật, Hà
Nội (tập I, 1975; tập II, 1981). Hai tập sách nàydày hơn 1000 trang, mô tả khá
kỹ các loài chim ở nước ta, gồm hơn 1000
loài, có minh họa bằng hình vẽ đen-trắng. Sách này không nói đến chim Én, mà có một mục viết về Họ Nhạn –
Hirundinidae. Vì Hirundinidae là họ của Hirondelle
trong tiếng Pháp hoặc Swallow trong tiếng Anh,
cho nên, người viết bài này biết rõ rằng, đó chính là Họ Én trước đây nhưng nay
đã bị đổi thành Họ Nhạn. Sách này cho biết:
Họ Nhạn gồm các loài chim nhỏ cỡ bằng chim sẻ. Cũng như yến, nhạn
là những loài chim chuyên sống trên không, thân có hình thuôn, cổ ngắn, đầu
tròn, mỏ dẹp, ngắn, hình tam giác và có thể há được rất rộng. Kiểu cấu tạo mỏ
như thế giúp cho nhạn bắt mồi dễ dàng trong không trung. Giò nhạn ngắn, ngón
chân yếu nhưng móng chân khá phát triển và cong. Cánh nhạn rất dài, nhọn và có
9 lông cánh sơ cấp thứ nhất rất bé. Đuôi có 12 lông; ở phần lớn loài, hai lông
đuôi ngoài cùng dài hơn hẳn các lông khác. Bộ lông thường mượt, chủ yếu là màu
đen ánh thép và màu trắng. Chim đực và chim cái có bộ lông giống nhau hay gần
giống nhau..
Các loài nhạn đều bay rất giỏi và rất nhẹ nhàng. Chúng có thể đậu ở cành
cây, ở vách đá, vách tường hay trên mặt đất nhưng không đi được hay đi rất khó
khăn. Thức ăn của nhạn là côn trùng nhỏ mà chúng bắt trong khi bay. Nhạn thường
làm tổ ở vách đá, vách tường và đôi khi làm tổ trên cây. Mỗi lứa đẻ 4 – 6
trứng.
Họ Nhạn gồm khoảng 75 loài phân bố rộng rãi trên thế giới. Ở Việt nam có
10 loài thuộc 3 giống.
Ghi chú Ở đây, tác giả dùng từ yến để chỉ loại chim có bề ngoài rất giống chim én, có tên bằng tiếng Anh là Swift, (tiếng Pháp là Martinet, tiếng Hán là Vũ yến 雨 燕), hợp thành Họ Apodidae (= Swift family) mà Trung Quốc gọi là Họ Vũ yến, ở Việt Nam hiện
nay đang gọi là Họ Yến.
b). Chim Việt Nam, Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải,
Karen Philipps, Nxb Lao động – Xã hội,
Hà Nội, 2000.
Sách này do chương trình Bird Life
International tại Việt Nam tổ chức biên soạn và phát hành, với sự giúp đỡ
của Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Hiệp
hội Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (International Union for Conservation
of Nature). Phần mô tả các loài chim ngắn gọn, có 85 trang ảnh màu mô tả hơn
500 loài chim. Dưới đây là vài hình ảnh của “chim nhạn” (hàng ngàn năm qua được gọi là
chim én) theo sách này.
IV. Có nên đổi tên chim én thành chim nhạn
hay không?
1. Điều gì khiến người ta đổi tên của chim Én?
Én
(tương ưng với Hirondelle, Swallow vàYến 燕 (trong Pháp ngữ,
Anh ngữ và Hán ngữ) là loại chim nhỏ gồm nhiều giống, rất nhiều loài, bằng cỡ
chim sẻ hoặc nhỏ hơn, là nhóm tiêu biểu của họ Hirundinidae mà trước đây người
Viêt gọi là họ Én mà khoảng hơn 40 năm gần đây lại đổi thành họ Nhạn. Chim Én
đi lại rất kém, cũng không bơi được nhưng bay rất giỏi, sống nhở tài bay lượn để
bắt bọn côn trùng nhỏ trên không. Mọi hoạt động của chúng như bắt mồi, rỉa
lông, kể cả ngủ và giao phối đều diễn ra
trong lúc bay. Suốt một thời gian rất dài, người ta coi mọi loài chim có những
đặc điểm bên ngoài như vây đều thuộc Họ Én, bao gồm cả một số loài có khả năng
gắn tổ vào vách đá bằng chất keo tiết ra theo nước bọt. Trong thế kỷ 20, người
ta mới khám phá ra rằng, những loài chim có nước bọt dính ấy và chim Én không
có quan hệ họ hàng với nhau. Chỉ vì điều kiện sống giữa chúng với chim Én giống
nhau nên đã diễn ra sự tiến hóa hội tụ (convergent evolution) khiến cho chúng
có những biểu hiện bề ngoài giống như chim Én,
nhưng về bản chất sinh vật học thì khác hẳn, thể hiện rõ nhất ở cấu trúc
ADN. Chúng có tên chung bằng tiếng Anh là Swift,
tiếng Pháp là Martinet, tiếng Hán là
Vũ yến 雨燕. Vì nhóm chim này thực chất
không phải là Én nên người ta đã tách
chúng ra khỏi Họ Én để xếp vào họ
Apodidae hay Swift family (Trung Quốc gọi là họ Vũ yến) rồi ghép với họ
Trochilidae (họ Chim ruồi), hợp
thành bộ
Apodiformes. Trong họ Apodidae này có một số loài thuộc phân họ Collocaliini (người Anh – Mỹ gọi là Swiftlet, người Pháp gọi là Salangane, người Hán gọi là Kim ti yến 金丝燕, tức là Yến
tơ vàng, người Nhật viết bằng chữ Hán là Huyệt yến 穴燕, nghĩa là Yến
hang) làm tổ gần
như hoàn toàn bằng những sợi keo rút ra từ nước bọt, Người Trung Hoa gọi tổ yến ấy là yến oa 燕 窩 hoặc yến sào 燕 巢 (tiếng Anh là Edible bird's nest, tiếng Pháp là Nid d’hirondelle). Từ hơn 400 năm qua, họ
đã coi đó là món ăn rất quý. Giá trị của các loại tổ yến cũng rất khác nhau. Tổ
yến của loài Aerodramus fuciphagus, còn gọi là Collocalia fuciphaga (tiếng Anh là Edible-nest Swiftlet, tiếng Pháp là Salangane à nid blanc, tiếng Hán là Trảo-oa Kim ti yến,
nghĩa là Yến tơ vàng Java) được coi
là quý nhất.
Vì muốn phân biệt rạch ròi giữa Én (còn gọi là Yến, = Hirondelle =
Swallow) nên các nhà ngôn ngữ học và sinh vật học nước ta đã đổi Én thành Nhạn
và dành tên Yến để chỉ các loài Swift mà người Hán gọi là Vũ yến. Chim Én vốn
có mặt trong ca dao và danh ngôn, nay bị đổi thành Nhạn, rồi họ mô tả
chim Nhạn theo “ quy định” mới, đúng như
loại chim có tên là Hirondelle trong tiếng Pháp. Mọi ý niệm về chim Nhạn (sứ giả
đưa tin) đã được định hình từ bao đời nay đều bị xóa bỏ để nhường chỗ cho những
quy định của họ về chim “Nhạn mới”.
2. Những rắc rối bỗng
xuất hiện do việc đổi tên Én thành Nhạn
Chim En đã được định hình rõ nét trong
tâm thức của mọi người, đã là hình tượng quen thuộc trong những câu ca dao,
những câu thơ nổi tiếng. Đổi tên Én thành Nhạn thì âm hưởng và tính truyền cảm
của câu thơ sẽ khác hẳn, trở nên xa lạ, lạc lõng. Vả lại, ca dao và những câu
thơ nổi tiếng của tiền nhân đều đã đi vào lịch sử, ai có quyền sửa đổi? Chim Nhạn biểu trưng cho sứ giả đưa tin từ
người phương xa, đã có chỗ đứng đẹp đẽ trong văn thơ rồi. Trong thơ và ca dao,
nhiều khi En và Nhạn cùng đối diện nhau, bởi vậy, khi đã đổi En thành Nhạn thì
cũng phải đổi Nhạn thành cái tên gì đó. Thế là tạo nên sự lộn xộn lung tung. Câu
danh ngôn triết lý sâu sắc nhưng giản dị “Một
con én không làm nên mùa xuân “ của nhà hiền triết Hy Lạp cách đây
24 thế kỷ, đã trở thành ngạn ngữ quen thuộc
ở khắp Châu Âu và trên thế giới, khi bị GS Lê Khả Kế đổi thành Một con nhạn không làm nên mùa xuân
thì trở nên gượng ép, vô nghĩa, bởi vì từ bao đời nay có ai nghĩ đến mối liên
hệ giữa chim Nhạn (ngỗng trời) và mùa xuân
đâu. Còn GS Nguyễn Lân đổi hai câu Én bay thấp, mưa ngập bờ ao / Én
bay cao, mưa rào lại tạnh thành ra Nhạn bay cao, mưa rào lại tạnh / Nhạn bay thấp, mưa ngập bờ ao
thì quả là đã xuyên tạc câu ca dao phản ánh một kinh nghiệm dân gian. Bởi vì Nhạn là con ngỗng
trời, chẳng ai thấy nó tung
tăng bay lượn trước mắt mọi người nên không thể có mặt trong hai câu ấy. GS
Nguyễn Lân còn cho biết rằng, nhạn
tín (hay thư nhạn) nghĩa là tin tức và chú giải: “Theo truyền thuyết,
Tô Vũ đời Hán bị giam ở đất Hung-nô viết thư buộc vào chân chim nhạn gửi về
cho vua”. Ngay trước đó, ông đã xác quyết: “nhạn là loài chim trời
thuộc bộ sẻ, đuôi dài chẻ đôi, mỏ ngắn”. Đó chính là con chim mà từ nhiều
thế kỷ người ta đã gọi là Én. Thử hỏi, ai có thể buộc thư vào đôi chân nhỏ xíu
như cọng cỏ và ngắn ngũn của một con chim nặng 50 – 60g để nhờ nó chuyển đi xa
hàng ngàn dặm?
Cứ theo các vị Nguyễn Lân và Lê Khả Kế, phải thay Én bằng Nhạn như họ đã
làm mẫu trong các cuốn từ điển kia thì
ắt phải xẩy ra nhiều điều rắc rối, nan giải. Riêng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã năm lần nhắc đến Én, tám lần nói đến Yến
(cũng là Én), nếu phải thay các từ Én và
Yến bằng Nhạn thì sẽ có những câu như: Xập
xè nhạn liệng lầu không; Thiếp như
con nhạn lạc đàn, …,Từ Hải sẽ có
tướng mạo Râu hùm, hàm nhạn, mày ngài. Còn
gì là thơ của Nguyễn Du nữa đâu!
Đến câu Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên thì gặp rắc rối to: yến thì đổi
thành nhạn, còn nhạn (khác hẳn yến) thì nay gọi là gì? Gọi là Ngỗng trời chăng?
Có lẽ chỉ nên gọi là Ngỗng để cho câu
thơ vẫn có 8 chữ? Lúc đó, sẽ có hai câu:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay ngỗng nhạn đã hòng
đầy niên.
Lại thử noi gương hai vị giáo sư, đổi Én thành Nhạn (mới) và đổi Nhạn (cũ) thành Ngỗng thì sẽ được các câu ca dao trữ tình như sau:
Ngỗng
về biển bắc ngỗng ơi /Bao thuở ngỗng hồi để nhạn đợi trông!
và: Ngỗng
nam nhạn bắc lạc bầy / Biết bao giờ
đặng duyên vầy ái ân
Có thể chấp nhận sự sửa đổi như thế hay không?
Phải khẳng định rằng, những câu thơ của các thi nhân nổi tiếng cùng
với những câu ca dao có nhắc đến nhạn và
én (hoặc yến) đều rất hợp cảnh hợp tình, không hề sai, cho nên không thể sửa đổi, không được
phép sửa đổi, vì đã quá hay và còn là cứ liệu lịch sử về ngôn ngữ trong văn
chương tiếng Việt .
Một em bé khi mới ra đời liền được cha
mẹ đặt cho một cái tên để gọi và để phân biệt với mọi đứa trẻ khác. Khi một
người lớn vì một lý do nào đó khiến cần phải đổi tên thì việc đó cũng không hề
đơn giản, do người ấy có nhiều quan hệ xã hội phức tạp, đổi tên thì sẽ dẫn đến
nhiều sự rắc rối nhầm lẫn, có khi rất tai hại. Người nào dù có quan hệ xã hội
rộng rãi đến mấy thì cũng chỉ nằm trong một phạm vi rất nhỏ hẹp so với toàn xã
hội, vậy mà thủ tục đổi tên cũng khá phiền phức và cần phải xem xét rất thận trọng. Khi một cộng đồng cư dân tiếp xúc
với một đối tượng mới lạ (các hiện tượng tự nhiên, các sinh vật, v.v.) thì cộng
đồng ấy đặt cho đối tượng nọ một hoặc vài cái tên rồi những cái tên ấy được
định hình trong nhận thức của mỗi người, chẳng dễ thay đổi.
Từ xa xưa, người Trung Hoa và người Việt
Nam nhìn thấy cá voi và cá sấu sống dưới nước như rất nhiều loại cá khác nên họ
coi chúng là những loại cá, gọi là cá voi (kình ngư) và cá sấu (ngạc ngư). Về
sau, nhận thấy rằng cá voi là động vật có vú, là một loại thú, cá sấu là động
vật bò sát tương tự như thằn lằn, nhưng chẳng ai thấy cấn phải đổi tên chúng
cho đúng với thực tế. Đó là vì những cái tên kia đã được định hình trong trí óc
của mọi người, mọi thế hệ, thật khó có cái tên mới nào thay thế được. Chỉ cần
mọi người hiểu và dạy bảo cho các cháu nhỏ biết rõ thực chất của các động vật
này là đủ. Cá voi chẳng họ hàng gì với voi. Để làm sáng tỏ điều đó, ta có thể
gọi nó là cá kình. Nhưng nó không
phải là cá mà thuộc loại thú,
Vậy, nếu gọi nó là thú kình thì rất
đúng và cũng không sợ nhầm lẫn gì cả.
Nhưng chẳng ai gọi như thế. Quả là không ai muốn và cũng rất khó đổi tên cho cá voi, vì đó là một việc chẳng có
ich lợi và chướng tai, hoàn toàn không
nên làm.
So với cá voi thì chim Én còn gần gủi với
quảng đại cư dân Việt Nam gấp hàng vạn lần. Én lại còn len lỏi vào ca dao tục
ngữ và văn thơ nhạc họa. cho nên, việc đổi tên cho nó lại càng khó hơn việc đổi
tên cho cá voi gấp hàng triệu lần. Nay lại gán cho Én cái tên “Nhạn” (cũng đã
được định hình và đi vào văn thơ từ bao thế kỷ) thì sự thể lại càng rắc rối
biết bao?
3. Sự lúng túng của những người đã đổi tên
Én thành Nhạn
Chúng ta đã
biết rằng, một số giống chim trong họ Hirundinidae (tiếng Việt trước đây gọi là
họ Én) đã được chuyển sang họ Apodidae (tiếng Việt gọi là họ Yến) thuộc bộ
Apodiformes (bộ Yến) vì chúng có bản chất sinh vật học khác hẳn bọn còn lại mặc
dầu nhìn những đặc điểm bên ngoài thì
rất khó phân biệt. Bọn còn lại đông đảo hơn thì vẫn thuộc họ Hirundinidae. Đó là những con chim rất quen thuộc với người
Việt, vốn là biểu tượng của mùa xuân, trước đây chúng ta vẫn gọi là Én thì nay được các nhà ngôn ngữ học (mà
tiêu biểu là GS Lê Khả Kế và GS Nguyễn Lân, cả hai đều đoạt
Giải thưởng Nhà nước về thành tích biên soạn từ điển) ban cho một cái tên mới
là Nhạn. Người viết bài này cứ ngỡ rằng, sau khi chia lũ Én thành bọn Yến và
bọn Nhạn thì cái tên Én bị hủy bỏ, như đã thấy trong hai tác phẩm chuyên khảo
về Chim Việt Nam (xem ở cuối muc III của bài này) vì nó không có
chỗ đứng nữa. Tuy nhiên, trong cả bốn quyển Từ điển về tiếng Việt kể trên và
trong các quyển Từ điển Việt – Anh hoặc Từ điển Việt- Pháp vẫn có từ Én. Hẳn là
các nhà biên soạn từ điển đã ngộ ra
rằng, không thể xóa bỏ từ Én trong tiếng Việt. Chim Én vốn rất gần gủi thân
thiết với mọi người con của Đất Việt,
dẫu đã được ban tên mới là Nhạn thì tên cũ ấy vẫn để lại dấu vết sâu đậm trong
tâm trí mọi người, trong sách vở, trong thơ ca nhạc họa.
Về từ Én, Từ
điển tiếng Việt do Văn Tân chủ
biên và Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân viết gần giống hệt nhau: Én = loài chim nhảy, đuôi chẻ đôi,
cánh dài, bay nhanh, hàng năm thường thấy vào mùa xuân . Còn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên và Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì viết chí khác
nhau vài chữ: Én = chim nhỏ, lông
màu đen, cánh dài và nhọn, chân ngắn, bay nhanh, thường gặp nhiều vào mùa xuân.
Với lời diễn giải như vậy thì từ Én vẫn
đang được lưu hành, nếu không phải như thế thì các từ điển đã phải ghi thêm mấy
chữ “nay gọi là Nhan” hay là “tên gọi cũ của Nhạn”. Hẳn rằng từ Én nay được các
giáo sư giao phó nhiệm vụ định danh cho một loại chim nào đó khác hẳn với chim
“Én cũ”, vì “Én cũ” đã được đổi thành Nhạn rồi cơ mà. Cứ theo sự diễn giải trong
bốn quyển từ diển này thì người đọc nghĩ ngay đến câu danh ngôn “Một con én không làm nên mùa xuân”.
Nhưng, lẽ nào “Én mới” cũng vẫn là Hirondelle, là Swallow, cũng chính là “Én
cũ” mà nay đã đổi thành Nhạn? Vậy thì “Én mới” này là loại chim gì đây:? Tên cũ
của nó là gì? Điều này đáng lẽ phải được nói rõ nhưng không thấy một quyển từ điển tiếng Việt nào
nhắc đến. Hẳn là những người biên soạn từ điển rất lúng túng, rất “khó ăn khó nói”.
Nay muốn biết cái từ Én ở đây là chỉ con
chim gì thì đành phải đi đường vòng, phải tra cứu xem “Én mới” đã được dịch
sang tiếng Anh và tiếng Pháp như thế nào, từ đó tiếp tục tìm kiếm trong các đại
từ điển của nước ngoài và trên mạng Interrnet mới có thể lần mò ra diện mạo của
nó.
Từ điển Việt –Pháp của Lê Khả Kế
và Nguyễn Lân (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989) cho biết: Én =
Martinet và Yến = Salangane
Từ điển Việt – Anh của Đặng Chấn Liêu,
Lê Khả Kế và Phạm Duy Trọng (Nxb TP Hồ Chí Minh, 1997) thì viết: Én = Swift; Yến = Salangane
Ở đây, các từ điển này đã phạm một số
sai lầm nghiêm trọng. Salangane là một
từ trong tiếng Pháp có gốc Mã Lai và Philippines, tương ứng với Swiftlet trong tiếng Anh. Tại tiểu mục 1 trong phần IV này, độc giả đã
biết rằng, Salangane hay Swiftlet là tên chung của các loài trong phân họ Collocaliini thuộc họ Yến (Apodidae) mà người
Nhật gọi là Huyệt yến, tức là Yến
hang. Họ
Apodide là họ của bọn Swift (=Swift family) mà người Trung Quốc gọi là họ Vũ
yến còn ở nước ta thì gọi là họ Yến Các giống Swift là nhóm chim tạo thành họ
Apodidae, đã được định danh là Họ Yến rồi, nay lại bảo rằng chúng cũng lả Én
thì thật là luẩn quẩn. Phải chăng, những người biên soan các cuốn Từ điển Việt – Pháp và Từ điển Việt – Anh này đã bối rối cực độ
nên đành phải viết liều?
V. Vài lời cuối bài
Nếu cứ khăng khăng đổi tên chim Én thành
chim Nhạn thì hẳn phải gây ra nhiều rắc
rối và mâu thuẫn nan giải trong việc học tập và giảng dạy tiếng Việt. Tai hại nhất
là điều đó đã làm cho những câu thơ và những câu ca dao bất hủ trở nên thô
kệch, ngớ ngẩn. Đành rằng, các nhà ngôn ngữ học có lòng mong muốn cho từ ngữ tiếng Việt được
rành mạch, chính xác, tách bạch rõ ràng đâu ra đấy. Nhưng ngôn ngữ thì biến đổi
phức tạp, khó theo đúng những quy định hay phép tắc chặt chẽ. Nếu quá chú
trọng uốn nắn sửa chữa để đạt đến mức
chính xác như toán học thì nhiều khi dẫn đén sai lầm rất tai hại, mà việc cố ý
đổi tên chim Én thành chim Nhạn là một ví dụ rõ rệt.
Đối với những từ ngữ đã có lịch sử lâu
đời, đã được định hình trong tâm trí của hàng chục triệu người qua nhiều thế hệ, nghĩa của chúng
có thể thu hẹp hoặc mở rông ở từng thời kỳ thì chúng ta phải chú ý đến diễn
biến về ngữ nghĩa để hiểu và phân biệt trong từng ngữ cảnh chứ không nên (và
cũng không thể) sửa đổi chúng. Từ thời
nhà Minh, người Trung Quốc đã coi ”Yến sào” là một món ăn rất quý. Yến 燕 nghía lả Én, Yến sào nghĩa
là Tổ Én, vì hồi bấy giờ người ta cho rằng con chim làm ra cái tổ ấy là con Én.
Nay đã biết con chim ấy khác với Én nhưng người ta vẫn gọi nó là Yến, cụ thể là
Kim ti yến. Chỉ cần hiểu rõ bản chất
của nó là đủ. Người Pháp cũng vậy, họ gọi
món ăn ấy là Nid d’hirondelle, nghĩa
là Tổ của chim Én. Hiện nay họ vẫn duy trì tên gọi đó, mặc dầu
biết rằng đó là tổ của các loài Salangane. Các bộ từ điển tiếng Pháp phổ thông rất nổi tiếng
như Larousse, Robert, Hachette đều xác
nhận điều này, Khi gõ trên máy tính mấy chữ Nid
de Salangane (Tổ của Salangane) để tìm kiếm trên mạng Internet thì chỉ thấy hiện lên 2 văn bản có mấy chữ ấy nhưng
lại là văn bản của người Việt để quảng
cáo cho món “Yến sào” Việt Nam. Như vậy là đủ để thấy rằng, đổi tên chim Én là
một việc không ích lợi gì mà chỉ gây ra
rắc rối, làm hại cho tiếng Việt. Không thể đổi tên chim Én đã đành, đổi Én
thành Nhạn thì lại càng sai lầm thậm tệ nữa, bởi vì Nhạn cũng là một tên gọi có
lịch sử lâu đời, đã từng cùng với Én song hành trong văn thơ. Về từ Yến (tên
chim) trong tiếng Việt, chỉ cần mở rộng nghĩa cho nó là đủ.
Trước đây, trong tiếng Việt, từ Yến (tên chim) chỉ có nghĩa là chim Én.
Cách đây hơn một thế kỷ, một loại chim đẹp và hót hay, có nguồn gôc từ Quần đảo
Canaria (ở Đại Tây Dương, thuộc Tây Ban Nha) được đưa vào Việt Nam cũng được gọi là chim Yến. Nếu muốn phân biệt cho rõ thì gọi là chim Yến cảnh hoặc chim Yến hót.
Loại chim Yến này có danh pháp ba phần là Serinus canaria domestica (gồm các biến chủng Bạch Yến, Hồng Yến, Hoàng
Yến, ...) thuộc họ Fringillidae (ở Việt Nam gọi là họ Sẻ thông hoặc là họ Sẻ đồng, ở Trung Quốc goi là họ Yến
tước 燕 雀). Nay từ Yến được mở rộng thêm nữa để chỉ loại chim giống như Én, dùng
nước bọt có chất keo để gắn tổ vào vách đá hoặc để làm tổ. Sư mở rộng nghĩa của
một từ là điều rất bình thường, không
thể vì thế mà phải thay đổi những tên gọi đã có lịch sử nhiều thế kỷ và đã in
sâu trong tâm trí mọi người.