Câu hỏi
3
Trong bài Phát biểu khai mạc Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh GS Nguyễn
Lân 1906 – 2006 (tháng 8 năm 2006), với chủ đề “Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân với sự nghiệp trồng người”, GS
TS Nguyễn Viết Thịnh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã nói: “Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân còn là một nhà
văn, nhà thơ, một nhà soạn từ điển mẫu mực với 42 tác phẩm đồ sộ, đó là
những di sản rút ra từ những nghiên cứu , những định hướng có giá trị về nhân
cách trong sự phát triển nền giáo dục của nước nhà nhằm phát huy sức mạnh truyền
thống mang đậm bản sắc dân tộc với những tiến bộ về văn hóa giáo dục của thế giới”.
Vì sao một người có đến 42 tác phẩm khoa học “đồ sộ” mà không được phong học
hàm Giáo sư và cũng chỉ được trao tặng Giải thưởng Nhà nước (không được trao tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh) đợt II, khi đã ở tuổi 95, sau khi quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam vừa mới in
xong “chưa ráo mực” ? Lời tán tụng của GS TS Nguyễn Viết Thịnh về nhà giáo Nguyến Lân có đúng hay không?
Một người
nêu ý kiến:
“Trước
hết, ít nhất, nhà giáo Nguyễn Lân đã được xác định là tác giả của hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt.
Điều đó đã được phân tích và công bố cách đây gần 10 năm, và tất cả những
người bênh vực ông đều không thể chối cãi được. Nhưng, sự thực còn nguy hiểm
hơn thế nữa, vì điều đó mới là phát hiện ban đầu của một tác giả chưa có
điều kiện xem xét hết mọi quyển từ điển của ông Nguyễn Lân mà thôi. Nay
đã có bằng chứng đầy đủ để nói rằng, tất cả 5 quyển từ điển do
ông Nguyễn Lân biên soạn một mình đều phạm rất nhiều sai lầm, rất có hại
cho tiêng Việt. Vậy thì ông không thể là một là nhà biên soạn từ điển mẫu mực, mà phải
nói rằng, ông là một nhà biên soạn từ điển rất cẩu thả, coi thường trách nhiệm,
gây nhiều tai hại, rất đáng phê phán thật nghiêm khắc. Mọi người còn cần phải phân tích, phê phán nhiều hơn nữa về điều
này. Nay hãy xem xét về mặt ”khối lượng” thành tích của ông. Có đúng là nhà
giáo Nguyễn Lân đã để lại 42 tác
phẩm “đồ sộ” như lời tán dương của
GS TS Nguyễn Viết Thịnh hay không ?”
Trả lời:
▌ Trước hết, hãy khảo sát xem 42 tác phẩm của nhà giáo
Nguyến Lân “đồ sộ” đến mức nào.để thấy được giá trị lời tán tụng của ông Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
Danh mục
các tác phẩm của nhà giáo Nguyễn Lân đã được ông Nguyễn Lân Dũng đưa vào cuốn sách
Vinh
quang nghề thầy (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004) và cũng được in lại đầy đủ
trong sách “Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân với sự nghiệp trồng người – Kỷ yếu Hội thảo kỷ niêm 100 năm ngày sinh
GS nguyễn Lân, 1906 – 2006” (Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành, 14/6/2006). Chính
nhà giáo Nguyễn Lân đã cung cấp danh mục này khi ông còn sống và cho in ở cuối
cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam do
Nxb TP Hồ Chí Minh phát hành năm 2000.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà giáo Nguyễn Lân có 6 tác phẩm:
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà giáo Nguyễn Lân có 6 tác phẩm:
- Cậu bé nhà quê (1925); Impr. Franco-asiatique, Hà nội, 1929.
- Khói hương (tiểu thuyết xã hội) Nxb Tân Dân, Hà Nội, 1935.
- Ngược dòng (tiểu thuyết xã hội) Nxb Tân Dân, Hà Nội, 1936.
- Hai ngả (tiểu thuyết xã hội) Nxb Tân Dân, Hà Nội, 1938.
- Nguyễn Trường Tộ, Nxb Viễn Đệ, Huế; Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1941, tái bản 1942.
- Những trang sử vẻ vang (hai tập), Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1943.
Cả 6 tác
phẩm này được in với khổ giấy nhỏ và thưa chữ nhưng đều rất mỏng. Ví dụ: Cậu bé nhà quê. 77 trang (tương đương 50
trang khổ 13x19cm hiện nay); Nguyễn Trường
Tộ, 109 trang; mỗi trang chưa đén 200 chữ; nếu in ở khổ giấy 13x19cm như các tiểu thuyêt thông
thường hiện nay (mỗi trang in 30 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 12 chữ, trung bình là
11 chữ) thì số trang in sẽ vào khoảng 66
trang. Cụ thể là, tác phẩm Những trang sử vẻ vang gômg 2 tập (tập I,
193 trang; tập II, 165 trang, tổng cọng là 358 trang), năm 1998, Nxb Khoa học Xã hội
in lại, chỉ có 196 trang). Các quyển Khói
hương, Ngược dòng, Hai ngả, mỗi quyển chỉ vào khoảng 70 - 80 trang khổ 13x19cm.
Theo
danh mục do nhà giáo Nguyễn Lân cung cấp thì sau Cách mạng tháng Tám, ông đã viết
31 tác phẩm, trong đó có 11 tác phẩm “cùng tập thể” và 20 tác phẩm viết riêng. Trong danh mục đó (in trong sách
Vinh quang nghề thầy và Kỷ yếu I) cũng có chỗ không chính xác.
Ví dụ, không có sách Giáo trình giáo dục
học (NXB Giáo dục, 1961) như ông đã ghi, nhưng có sách Sơ thảo giáo dục học đại cương (Nxb Giáo dục, 1962, 569 trang); không
có sách Luân lý lớp sáu và lớp bảy phổ
thông (Nxb Giáo dục, 1964), mà có sách Luân lý
lớp sáu phổ thông (Nxb Giáo dục, 1964, 48 trang) và sách Luân lý lớp bày phổ thông (Nxb Giáo dục, 1964, 62 trang).
Ngoài ra, nhà giáo Nguyễn Lân cũng ghi
sót quyển Hồi ký giáo dục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1997, tái bản 1998, 44 trang. Như vậy, con số 11 tác phẩm “cùng
tập thể” nay trở thành 12, và 20 tác phẩm do ông viết riêng sau năm 1945, nay
được tính là 21. Sau đây là các bản liệt
kê hai nhóm tác phảm ấy kèm theo số trang của từng tác phẩm để thấy rõ mức độ
“đồ sộ” của chúng.
Mười hai (12) tác phẩm “cùng tập thể” viết sau năm 1945
Mười hai (12) tác phẩm “cùng tập thể” viết sau năm 1945
- Sơ thảo giáo dục học đại cương, NXB Giáo dục,
1962, 569 trang
Ban biên soạn (10 người): Nguyễn Hữu Tảo (chủ biên), Lê Khánh Bằng, Nguyễn Lân, Vũ VănThái, Phạm Cốc, Vũ Đình Liên, Nguyễn Văn Triệu, Hoàng Ngọc Di, Đức Minh, Vũ Tiến Yên. - Quy chế thực tập sư phạm, Nxb Giáo dục, 1962, 60 trang
Ban biên soạn (6 người) Nguyễn Lân, Hoàng Triều, Hoàng Hạnh, Nguyễn Duy Minh, Nguyễn Đức Ảnh, Trần Lanh. - Từ điển chính tả phổ thông, Viện Văn học xuất bản,1963, 311 trang,
Ban biên soạn (7 người): Từ Lâm, Nguyễn Lân, Nguyễn Đức Bảo, Long Điền, Hồ Lãng,Hoàng Phê, Đào Thản, khổ 8,5x12cm, nhỏ bằng lòng bàn ta. - Luân lý lớp sáu phổ thông, Nxb Giáo dục, 1964, 48 trang
Nhóm biên soạn (11 người): Phan Minh Vệ, Nguyễn Đình An, Lê Khánh Bằng,Nguyễn Tài Sum,Nguyễn Xuân Tảo, Hoàng An, Trịnh Văn Ngân, Nguyễn Lân, Hoàng Hữu Xứng, Phùng Cốc Đê, Nguyễn Minh Quang. - Luân lý lớp bảy phổ thông, Nxb Giáo dục, 1964, 62 trang
Nhóm biên soạn (7 người): Nguyễn Đình An, Nguyễn Lân, Nguyễn Tài Sum, Phan Minh Vệ, Lê Khánh Bằng, Vũ Thị Lan Hương, Nguyễn Minh Quang. - Viết thế
nào cho đúng. Hội Nhà báo Việt
Nam xuất bản, 1965, 84 trang,
Hoàng Tuệ, Nguyễn Lân, Nguyễn Tăng, Hoàng Phê (Nguyễn Lân chỉ có 1 bài “Vì sao tôi yêu tiếng Việt”, từ trang 25 đến trang 40). - Thuật ngữ tâm
lý – giáo dục Nga – Pháp – Việt. Nxb Khoa học, 1967, 174 trang. Khởi thảo (7 người): Nguyễn Lân,
Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Đức Minh, Đặng Xuân Hoài, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn
Ngọc Bảo, Nguyễn Đức Uy. Bổ sung và duyệt lần cuối (6 người):
Nguyễn Lân, Hà Thế Ngữ, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Phạm Văn Diên, Lê Khả Kế.
Thuật ngữ tâm lý-giáo dục Nga – Pháp – Việt gồm gần 100 trang. Sau đó là các bảng sắp xếp lại để tra ngược Việt – Nga – Pháp và Pháp – Nga – Việt. - Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, 1967,
1977, 1991, 1415 trang
Ban biên soạn (13 người): Văn Tân (chủ biên), Nguyễn Lân, Nguyễn Văn Đạm, Lê Khả Kế, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Ngô Thúc Lanh, Ngụy Như KonTum, Trần Văn Giáp, Nguyễn Thạc Cát, Đoàn Hựu, Trần Văn Khang, Long Điền, Hoa Bằng. - Jăng- Krixtốp của
Romain Rolland, (dịch) 4 tập, Nxb Văn học, 1976 - 1981
Nhóm dịch thuật (5 người): Tảo Trang, Trần Hữu Mai, Nguyễn Lân, Phạm Ngọc Hải, Nguyễn Xuân Huy. - Từ điển Pháp – Việt, Tổ chức Hợp tác văn hóa và kỹ thuật ACCT xuất bản tại Paris
năm 1981, tái bản năm 1988 ở Paris và ở
TP Hồ Chí Minh, 1381 trang.
Ban biên soạn (8 người): Lê Khả Kế (chủ biên), Nguyễn Lân, Nguyễn Đức Bính, Đồng Sĩ Dương, Đoàn Nồng, Phạm Văn Xung, Nguyễn Quát, Vũ Đình Liên. - Từ điển Việt Pháp (cùng với GS Lê Khả Kế), Nxb Khoa học Xã hội, 1989, 1132 trang
- Lớp nhà ba thế hệ, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, 1968 (chưa tìm thấy).
Trong số
12 tác phẩm “cùng tập thể” ấy có ít nhất lả 6 tác phẩm nhỏ và rất nhỏ (từ số 2
đến số 7). Quyển Luân lý lớp sáu phổ
thông, 48 trang khổ 13x19cm, do Nxb Giáo dục xuất bản năm 1964 và tái bản
năm 1968, trong đó nhà giáo Nguyễn Lân chỉ viết chưa đến 5 trang nhỏ khổ
13x19cm. Tác phẩm này gồm 16 bài dạy luân lý, nhà giáo Nguyễn Lân chỉ tham gia
viết 2 bài, cùng với hai tác giả khác, cụ thể là bài 2 và bài 7. Bài 2 có tên
là “Cần phải rèn luyện những đức tính tốt
. Ngô Đắc Khả đã tiến bộ” (cùng viết với Vũ Đình An), in ở nửa trang 7 và
các trang 8, 9, 10, gồm ba
trang rưỡi. Bài 7 có tên là “Tinh thần tự
lực” (cùng viết với .Phan Minh Vệ),
in ở trang 22 và một nửa trang 23, gồm một trang rưới. Tuy quyển sách Luân lý lớp sáu phổ thông cũng được coi
là một trong 42 tác phẩm “đồ sộ” nhưng trên thực tế thì ông Nguyễn Lân chỉ viết
chung với người khác (có thể là ông viết phần nhiều hơn) trong 5 trang sách mà
thôi. Ở quyển Luân lý lớp bày phổ thông
cũng vậy. Quyển này gồm 13 bài thì ông Nguyễn Lân có 3 bài viết chung với các
tác giả khác. Đó là các bài 1 (Tu dưỡng đạo
đức cách mạng, viết chung với Nguyễn Đình An, gồm 4 trang rưỡi, in từ trang
5 đến trang 9), bài 5 (Yêu quê hương đất
nước, viết chung với Phan Minh Vệ, ở trang 23 và 24) và bài 6 (Thái độ lao động mới, viết chung với
Nguyễn Đình An, từ nửa trang 27 đến nửa trang 31, gồm 4 trang), tổng cọng là 10 trang rưỡi. Trong
quyển Viết thế nào cho đúng (87
trang), ông Nguyễn Lân chỉ có bài Vì sao tôi yêu tiếng Việt (từ
trang 25 đến trang 40) chưa đầy 16 trang, nhưng cũng được coi là một trong 42 tác phẩm “đồ sộ” Mặt khác, bài Vì sao tôi yêu tiếng Việt cũng được in trong một tác phẩm khác, là quyển Tôi yêu tiếng Việt (167 trang).
Tổng số trang viết của nhà giáo Nguyễn
Lân trong cả 6 tác phẩm “đồ sộ” ấy ước tính chừng 150 trang. Chúng tôi chưa tìm
thấy quyển Lớp nhà ba thế hệ (mặc dầu
đã tìm ở Thư viện Quốc gia, Thư viện
Khoa học Xã hội, Thư viện Trung ương của Quân đội, Thư viện Hà Nội, và Thư viện Đại học Sư Phạm Hà Nội, Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội).
Tìm kiếm trên mạng Internet cũng không thấy tăm hơi của quyển sách này. Điều đó
cho phép nghĩ rằng, đó cũng là một tác phẩm nhỏ hoặc rất nhỏ, không có tiếng
vang, và nhà giáo Nguyễn Lân cũng chỉ có 1 – 2 bài ngắn trong đó mà thôi. Ở quyển
Sơ
thảo giáo dục học đại cươn (569 trang),
ông Nguyễn Lân chỉ là một trong 10 người biên soạn. Có 3 quyển từ điển dày trên
1000 trang do rất nhiều người biên soạn và một bộ sách dịch do 5 người dịch. Đó chưa phải lầ những tác phẩm
“đồ sộ”, lại càng không phải là những “tác phẩm đồ sộ của nhà giáo Nguyễn Lân”,
vì ông chỉ là một thành viên thứ yếu trong
các nhóm rất đông người (riêng quyển Từ điển Pháp – Việt, gồm hai soạn giả,
trong đó, ông Nguyễn Lân không phải là soạn giả chủ yếu).
Hai mươi mốt (21) tác phẩm viết riêng sau năm 1945
Hai mươi mốt (21) tác phẩm viết riêng sau năm 1945
- Muốn đúng chính tả, Nxb Thịnh Đức, Liên khu X, 1949; Nxb Nguyễn Du, Hà Nội (21 Hàng Điếu và 27 Đinh Tiên Hoàng), 1956, khổ 12x16cm, 149 trang (chữ to, nếu in cỡ chữ thông thường, khổ 13x19cm thì được khoảng 80 trang).
- Ngữ pháp Việt Nam (từ lớp 3 đến lớp 7) Bộ giáo dục xuất bản, 1956, 131 trang.
- Để tìm hiểu Gooc – ki, Nxb Thanh niên, 1958, 94 trang.
- Lịch sử giáo dục học thế giới, Nxb Giáo dục, 1958, 210 trang.
- Khảo thích Truyện Trê Cóc, Nxb Văn hóa, 69 trang.
- Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, 1960, 70 trang.
- Giảng dạy trên lớp, Nxb Giáo dục, 87 trang.
- Công tác chủ nhiệm lớp, Nxb Giáo dục, 1962, 149 trang.
- Từ điển từ và ngữ Hán Việt (Có chú giải từ tố), Nxb TP Hố Chí Minh, 1989, 867 trang.
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa, 1990, 323 trang.
- Hồ chủ tịch, nhà giáo dục vĩ đại, (với sự cộng tác của Hà Trung Chính, Phan Thế Sủng) Nxb Khoa học xã hội, 1990, 107 trang.
- Con người văn minh sống như thế nào, Nxb Thanh niên, 1990, 87 trang.
- Từ điển thành ngữ tục ngữ Pháp Việt, Nxb Giáo dục, 1993, 308 trang.
- Một trăm mẫu chuyện cổ Đông – Tây, Nxb Giáo dục, 100 trang.
- Trao đổi về tình thầy trò, Nxb Thanh niên, 1963, 49 trang.
- Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt –Pháp, Nxb Văn học, 272 trang.
- Tôi yêu tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, 1995, 167 trang.
- Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2000, 2111 trang.
- Hồi ký giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997, 44 trang.
- Giảng văn, Trung học vụ Liên khu X, 1951 (chưa tim thấy).
- Nhớ nguồn (tập thơ), Nxb Văn học, 1994 (chưa tìm thấy).
Trong số 21 tác phẩm này, có quyển Giảng văn (do Trung học vụ Liên khu X xuất
bản năm 1951) và tập thơ Nhớ nguồn (Nxb Văn học, 1994), tìm ở Thư
viện Quốc gia, Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Trung ương của Quân đội, Thư
viện Hà Nội, Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội đều không thấy. Quyển Giảng văn được biên soạn và xuất bản năm
1951 ở Việt Bắc chỉ có thể là môt tác phẩm nhỏ hoặc rất nhỏ mà
thôi. Tập thơ Nhớ nguồn cũng chưa thấy
ai nói đến. Theo lời một thầy giáo từng
đọc tập thơ ấy (nay chưa tìm lại được), thì đó là một tập thơ rất nhỏ, không phát
hành rộng rãi nên không đáng chú ý .
Mặc dầu GS TS Nguyễn Viết Thịnh nói rằng nhà
giáo Nguyễn Lân đã để lại 42 tác phẩm đồ
sộ, nhưng theo danh mục do chính chủ nhân cung cấp thì chỉ có 37 tên sách,
kèm theo tên cơ quan xuất bản và năm xuất bản. Ngoài danh mục đó, chúng tôi cũng bổ sung 2 tên sách
và đã xem xét 35 tên sách. Chắc chăn rằng
con 37 + 2 tác phẩm ấy là gần sự thật nhất,
còn con số số 42 tác phầm do
ông GS TS Nguyễn Viết Thịnh đưa
ra là sai. Càng sai hơn nữa khi GS TS Nguyễn Viết Thịnh gọi đó lả 42
tác phẩm đồ sộ.
Qua sự khảo sát cụ thể trên đây thì thấy
rằng, từ năm 1988 trở về trước, tất cả các tác phẩm của nhà giáo Nguyễn Lân viết riêng, hầu
hết đều rất nhỏ (trên – dưới 100
trang). Chỉ có quyển Những trang sử vẻ
vang (Nxb Khoa học Xã hội in được
196 trang), và quyển Lịch sử giáo dục học thế giới (210
trang) là không quá nhỏ mà thôi. Ngoài
ra, ông cũng viết chung với nhiều người khác ở 12 tác phẩm, trong đó có 6 quyển
rất nhỏ. Ở mỗi tác phẩm “viết chung” ấy,
ông chỉ có một hoặc vài bài, trên dưới một
chục trang. Trong mọi tác phẩm “cùng tập thể” (phần lớn là tập thể đông người)
dù rất nhỏ hay không nhỏ lắm, ông luôn luôn đóng vai trò phụ thuộc, không phải
là người chủ biên, không chịu trách nhiệm về
một tác phẩm nào cả.
Từ năm 1988 trở đi, nhà giáo Nguyễn Lân
vẫn tiếp tục viết những tác phẩm rất nhỏ.
Quyển sách hơi dày đầu tiên là Từ điển từ
và ngữ Hán – Việt (Nxb TP Hồ chí Minh, 1989, 865 trang) và 3 quyển không nhỏ lắm, trên –
dưới 300 trang (Từ điển thành ngữ và tục
ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1989, 353 trang; Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp – Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992,
308 trang; Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt
– Pháp, Nxb Văn học, Hà Nội, 1993, 271 trang) Cuối cùng,, ông cho ra mắt độc giả cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb TP Hồ
Chí Minh, 2000, 2111 trang. Đây là quyển sách duy nhất của ông có số trang khá
lớn, hoàn thành lúc ông đã 95 tuổi. Nhờ sự tán dương của GS Lê Trí Viễn đối với
quyển Từ điển từ và ngữ Hán- Việt và
của GS Vũ Khiêu đối với quyển Từ điển từ
và ngữ Việt Nam, cho nên ngay trong năm 2000, khi quyển này mới in ra “chưa
ráo mực”, nhà giáo Nguyễn Lân đã lọt vào danh sách những người được trao tặng
Giải thưởng Nhà nước đợt 2 cho "Cụm công trình về giáo dục học và từ điển tiếng Việt".
Nhìn bên ngoài
thì quyển Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân không nhỏ lắm. Nó
được in trên giấy khổ 14 x 21cm.trang, in bằng chữ to và thưa.Dung lượng từ ngữ
của nó so so với Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh (ra đời năm 1932) thì
nghèo nàn hơn rất nhiều. Đây là một quyển
từ điển Hán Việt có dung lượng rất nhỏ
và phạm rất nhiều sai lầm. Điều này sẽ được chứng minh rất cụ thể ở đoạn
sau.
Từ điển từ và ngữ Việt Nam có vô số
sai sót, rất có hại cho tiếng Việt. Điều đó đã được chứng minh và còn cần phài
vạch rõ thêm. Nay thử xem xét dung lượng của nó để biết đó có phải là một quyển
từ điển “đồ sộ” hay không?
Nói
đến vật gì đồ sộ, ai cũng hiểu rằng vật đó phải rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với
những vật khác cùng loại và cùng một công dụng. Ví dụ, một gia đình gồm bốn người
mà sử dụng một cái phòng ăn rộng 40 mét vuông, với một cái bàn ăn dài 5 mét, rộng
3 mét, thì cái phòng ăn và cái bàn ăn ấy quả là quá đồ sộ. Nhưng nếu cái phòng
ăn ấy, cái bàn ăn ấy dùng để tiếp đãi 40 vị thực khách thì ai cũng phải kêu lên
rằng: Ôi, cái phòng ăn và cái bàn ăn kia quá nhỏ bé.
Về sách vở
cũng vậy. Một cuốn tiểu thuyết hay một tập truyện khổ 16 x 24mm, dày hơn 1000
trang cũng có thể coi là một quyển tiểu thuyết đồ sộ, hay một tập truyện đồ sộ.
Trong khi đó, quyển từ điển Petit
Larousse rất nổi tiếng của Pháp dày hơn 2000 trang, khổ 15,5 x 23,5cm, mối trang gồm
90 dòng, nhưng không ai gọi nó là đại từ điển, lại càng không phải là quyển
từ điển đồ sộ, mà chính tên của nó đã
mang chữ Petit, nghĩa là nhỏ. Từ điển Petit Robert gồm 2 tập, tổng cọng hơn 4500 trang, khổ giấy 16 x
24cm, mỗi trang 92 dòng, nghĩa là có dung lượng bằng 2,5 lần từ điển Petit
Larousse mà vẫn được gọi là từ điển nhỏ. Từ điển Bách khoa Việt Nam gồm 4 tập, mỗi tập khoảng 1000 trang giấy
khổ 19 x 27cm, với số trang như thế và khổ giấy ấy, nếu là sách truyện thì phải
nói là rất “đồ sộ”, nhưng là Từ điển Bách
khoa thì phải nói là rất nhỏ, quá nhỏ, vì dung lượng chữ của
nó chỉ bằng khoàng 2% đến 4% so với các
bộ Đại Bách khoa toàn thư của các nước
như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc
... mà thôi.
Từ điển từ và ngữ Việt Nam của
Nguyễn Lân được in trên khổ giấy 16 x
24cm (rộng hơn quyển Petit Larousse một
ít, và đúng bằng quyển Petit Robert),
2111 trang (xấp xỉ bằng số trang của quyển Petit
Larousse) nhưng giấy dày hơn nên dày gấp rưỡi quyển Petit Larousse, khổ giấy lại nhỉnh hơn
nên trông ‘bề thế” hơn hẳn. Tuy nhiên, khi nói đến một ấn phẩm sách báo, các
tác giả và các Nhà xuất bản bao giờ cũng phải tính đếm dung lượng chữ của
nó, nên người ta phải chú ý đến số dòng trong mỗi trang và số chữ trong mỗi
dòng để tính ra số chữ trong mỗi trang. Khoảng trước năm 1990, khi trả tiền nhuận
bút cho các tác giả hoặc dịch giả, các Nhà xuất bản và các cơ quan báo chí ở Hà
Nội đều căn cứ và “số chữ” trong ấn phẩm (một “chữ” tức là một từ đơn, chỉ có một
âm tiết, ví dụ, từ Việt Nam được tính là 2 “chữ”) rồi nhân với mức giá ứng với
1000 chữ, theo “ba-rem” do Bộ Văn hóa ban hành. Trong một trang in theo tiêu
chuần thông thương, số dòng càng ít thì mỗi con chữ càng to lên, số chữ trong một
dòng cũng giảm theo tỷ lệ tương ứng. Nếu Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn
Lân được in với cùng mật độ chữ như ở của từ điển Petit Robert (bằng cỡ chữ của Petit
Larousse), tức là mỗi trang in có 92 dòng (chứ không phải 49 dòng như hiện
nay) thì số trang của nó sẽ là:
N = 2111 x (48/92) x (48/92) = 575
trang (Từ điển Petit Larousse
dày hơn 2000 trang).
Nếu cũng
được in bằng giấy mỏng như ở Petit
Larousse thì Từ điển từ và ngữ Việt
Nam của Nguyễn Lân cũng sẽ dày (bằng 28% bề dày của Petit Larousse), chưa bằng
1/5 bề dày của nó hiện nay, tức là chưa đến 2cm. Khi đó, có lẽ GS TS Nguyễn Viết
Thịnh không gọi nó là quyển từ điển đồ sộ nữa, và nếu có nói như thế thì ai cũng thấy rất khó
nghe. Cũng cần nói thêm rằng, trong quyển từ điển này (cũng như trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt), ngoài những
sai lầm “chết người”, soạn giả còn viết rất rông dài, thừa nhiều câu nhiều chữ
không cần thiết, chiếm mất một phần ba số trang. Nếu viết gọn lại thì số trang
sẽ giảm được chứng 30%, nghĩa là nếu in
giống như từ điển Petit Robert (có cùng khổ giấy) thì chỉ còn khoảng 400
trang. .
Năm 1970,
Nhà sách Khai trí ở Sài Gòn đã xuất bản 2 tập sách Việt Nam từ điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, với số trang tổng cọng
là 2861, mỗi trang có 52 dòng. Nếu mỗi trang cũng in 48 dòng như ở từ điền của
Nguyễn Lân thì số trang của nó sẽ là:
N = 2861 x
(52/48) x (52.48) = 3358 trang (thêm hơn 60% so với từ điển của Nguyễn Lân)
Vậy mà cả
hai soạn giả đáng kính là Lê Văn Đức và Lê Lê Ngọc Trụ cùng đông đảo trí thức ở
miền Nam trước đây đều chưa ai gọi đó là bộ Đại từ điển tiếng Việt.
Từ điển
từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân tuy dày hơn 2100 trang, trông có vẻ to lớn nhưng vẫn là một quyển từ điển tiếng Việt loại
nhỏ, không phải là quyển từ điển “đồ sộ”.
Trong số gần 40 tác phẩm của nhà giáo Nguyễn
Lân, đại đa số là những tác phẩm rất nhỏ và nhỏ, chỉ có 2 tác phẩm trên dưới
200 trang, 3 từ điển trên dưới 300 trang, một từ điển 865 trang, và quyển từ điển
lớn nhất dày 2111 trang. Hai quyển từ điển nhiều trang nhất cũng vẫn
thuộc loại từ điển nhỏ. Tất cả năm quyển từ điển ấy đều phạm quá nhiều sai lầm
nghiêm trọng, đã và đang bị tố cáo mạnh
mẽ trước công luận trong thời gian gần đây.
Tóm lại, nhà giáo Nguyễn Lân không hề có 42 tác phẩm
“đồ sộ’ như lời khẳng định của GS TS Nguyễn
Viết Thịnh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội., mà hầu hết là những tác
phẩm rất nhỏ và nhỏ, chỉ có 4 quyển từ điển không nhỏ lắm, và 1 quyển
khá dày nhưng vẫn thuộc loại từ điển nhỏ và đều phạm quá nhiều sai sót nghiêm trọng.
Như trên kia đã nói, trong thời gian giảng dạy ở Đại học Sư
phạm Hà nội, nhà giáo Nguyễn Lân vẫn là phụ tá của nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo nên
chỉ là giảng viên hạng ba, đứng sau các
nhà giáo Trần Đức Thảo và Trương Tửu hai bậc, cho nên đương nhiên là ông
chưa đủ trình độ và uy tín để được phong Giáo sư. Nhiều người cho rằng,điều
đó đã khiến ông ấm ức cho nên đến năm 1958, trong đợt đấu tố Nhân văn Giai phẩm,
nhà giáo Nguyễn Lân đã hăng hái viết bài Trường
Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai để vu oan giá họa cho các Giáo sư Trương
Tửu và Trần Đức Thảo.
Năm 1996, Nhà nước Việt Nam bắt đầu đặt ra Giải
thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước để trao tặng cho những tác gỉa có những
tác phẩm xuất sắc. Lúc bầy giờ, nhà giáo Nguyễn Lân đã 90 tuổi, là một trong những
người được chú ý để xem xét việc trao tặng giải thưởng nhưng vì ông chỉ có những tác phẩm rất nhỏ cho nên không thể tìm ra một lý do có vẻ
“thuận tai” để trao giải thưởng cho ông.. Lẽ nào có thể trao tặng giải thưởng về
thành tích viết sách Ngữ pháp Việt Nam
(từ lớp 3 đến lớp 7, 131 trang) và viết sách Muốn đúng chính tả (149 trang khổ 12 x 16cm, in chữ to, rất thưa, trong
đó đã “xui dại”độc giả viết sai chính tả như: trỗi dậy thì ông dạy là chỗi dậy, rớm máu thì ông dạy là dớm máu, chạnh lòng thì ông dạy là trạnh lòng, nông choèn choẹt thì ông dạy là nông trèn
trẹt, đen sì thì ông dạy là đen
xì, ngồi ru rú thì ông dạy
là ngồi giu giú, xun xoe thì ông dạy là sun
soe, v.v.). Chẳng lẽ tặng giải thưởng cho ông Nguyễn Lân vì ông đã tham
gia biên soạn sách Sơ thảo giáo dục học đại cương ( NXB Giáo dục, 1962, 569 trang) cùng với 9 tác
giả khác, hoặc vì ông đã tham gia biên soạn Từ điển
tiếng Việt (Nxb Khoa học Xã hội,
1991, 1415 trang) cùng với 12 người khác, do Văn Tân chủ biên)? . Cũng
không thể trao tặng Giải thưởng Nhà nước cho ông Nguyễn Lân vì ông đã tham gia
dịch cuốn tiểu thuyết Jăng- Krixtốp của
Romain Rolland cùng với 4 người khác. Cho đến năm 1996, khi ông Nguyễn Lân đã
ngoài 90 tuổi, và đã có cuốn Từ điển từ và ngữ Hán-Việt dày 865
trang (trông có vẻ dày dặn một chút chứ không lèo tèo như những quyển trước đó),
vẫn chưa đủ lý do để trao tặng Giải thưởng
Nhà nước cho ông. Mặc dầu lúc bấy giờ chưa ai vạch ra cái dung lượng quá nghèo
nàn và những sai lầm đầy rẫy trong đó, nhưng cứ xem qua thì cũng đủ thấy nó
thua kém rất xa so với cuốn Hán Việt từ
điển giản yếu của Đào Duy Anh ra đời trước nó hai phần ba thế kỷ. Bởi vậy, phải
chờ đên khi cuốn Từ điển từ và ngữ Việt
Nam (Nxb TP Hồ Chí Minh, 2000) dày 2111 trang (nhìn thì thấy to hơn và dày
gấp rưỡi từ điển Petit Larousse nhưng
dung lượng chữ thì chỉ bằng một phần ba so với từ điển Lpetit Larousse) vừa in xong thì mới có lý do để trao tặng Giải thưởng
Nhà nước đợt II cho ông về “Cụm công trình về giáo dục học và Từ điển tiếng Việt”
Bầu
không khí trở nên trầm lắng một lúc, rồi một người xin phép phát biểu:
▌Từ những điều mà các bác vừa mạn đàm, chúng ta
thấy rõ rằng, những bài viết về nhà giáo Nguyễn Lân từng được quảng bá lâu nay
thường chứa đựng nhiều điều sai sự thật. Các sự kiện, các sự việc được nêu ra trong
những bài đó đêu không nhất quán, nhiều
khi khác hẳn nhứng điều do chính ông
Nguyễn Lân viết ra. Thậm chí, có cả việc gán danh hiệu Giáo sư cho ông một cách
nhất trí “trăm phần trăm”, mặc dầu trong văn bản chính thức của Nhà nước hoàn
toàn không có việc đó. Các sự việc là những
thứ đã diễn ra, không thể thay đổi, lại có thể tra cứu được, tính đếm được, dễ
kiểm tra hơn cả. Thế mà người ta vẫn có thể tùy tiện nói theo ý thích, không cần
biết là đúng hay sai. Vậy thì việc đánh giá thực chất của các sự việc lại càng
mơ hồ hơn, sai lệch hơn, thậm chí sai hoàn toàn là lẽ đương nhiên, mà điển hình là việc GS Lê
Trí Viễn và GS Vũ Khiêu đã hết lời ca tụng hai
quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt của “Giáo sư” (tự phong) Nguyễn
Lân. Phải phân tích từng sự việc cụ thể
thì mới thấy hết những điều hồ đồ trong những bài viết để ca tụng nhà giáo Nguyễn
Lân. Đúng như lời của bạn Minh Trí đã
nói từ khi chưa bắt đầu cuộc mạn đàm này: ba tập sách kia về nhà giáo Nguyễn Lân
hoàn toàn không đủ độ tin cậy để đánh giá tài năng và cống hiến của ông. Trong những bài viết ở đó, chỉ thấy người ta kể lể các sự việc và ca ngợi hết lời mà hầu như không có dẫn chứng cụ thể, hoặc nếu
có thì lại là dẫn chứng saii. Điều đó sẽ được nói đến sau này. .▌
Bài viết hay quá. Cảm ơn tác giả đã cung cấp thêm thông tin và nhận thức đến với người đọc.
Trả lờiXóaLike !
Trả lờiXóa