Câu hỏi 4
Biên soạn các tác phẩm như Từ điển từ và ngữ Hán-Việt (865 trang,
khổ 14 x 16cm) và Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2111 trang, khổ 16 x 24cm) của nhà giáo
Nguyễn Lân là việc khó hay dễ, và có cần thiết hay không?
Trà lời:
1.
Vài nét sơ lược về hai quyển từ điển nhiều trang
nhất của Nguyễn Lân
Để biên soạn một
cuốn từ điển thật có giá trị, thu thập được hầu hết mọi từ ngữ có tần suất cao
trong đời sống và trong sách báo từ xưa đến nay rồi giảng giải một cách rõ ràng, ngắn gọn và dễ hiểu, bao gồm
nhiều từ ngữ khó mà các nhà biên soạn khác phải né tránh hoặc giảng giải không
chính xác, thì đúng là một công việc khó khăn, vừa tốn nhiều công sức vừa đòi hỏi
soạn giả phải có kiến thức uyên bác. Nhưng nếu chỉ côt cho từ điển in được nhiều
trang để có vẻ “đồ sộ” thì không khó. Người
ta có thể sao chép nhặt nhạnh ở sác quyển từ điển đã có sẵn rồi gọt sửa, thêm bớt chút ít, thay đổi một số
ví dụ, v.v thì không khó để có một quyển từ điển mới và tương đối lớn. Trên thị trường sách hiện nay có không ít
những quyển từ điên như thế. Người ta
cũng có thể tăng độ lớn của chữ, in chữ
to và thưa như quyển Đại từ điển Anh- Việt
của Bùi Phụng (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2007) dày 3750 trang, khổ giấy 19
x 27cm, mỗi trang in 52 dòng. với giá đề ở bìa là 498.000 một quyển. Vì sách có
kích thước quá “đồ sộ” nhưng nội dung
nghèo nàn, dung lượng quá nhỏ nên mặc dầu
chỉ in 2000 bản từ năm 2007 mà không thể bán hết, phải hạ giá xuống 200.000 đồng
mà vẫn bàn không chạy, cuối cúng, phải hạ xuông 90.000 đồng, đến giữa năm 2013
mới bán hết. Nếu in với khổ giấy và cỡ
chữ như ở từ điển Petit Robert thì Đại từ điển
Anh- Việt của Bùi Phụng sẽ có số trang N’ = 3750 x (52/92) x (52/92) = 1014 trang. Nếu cũng in với cỡ chữ nhỏ như thế
và giữ nguyên khổ giấy 19 x 27cm thì số
trang là N’’ sẽ ít hơn nữa, chỉ còn N” =
1014 x (16 x 24) / (19 x 27) = 760 trang . Như trên kia đã nói, vì in chữ to
nên Từ điển từ và ngữ Việt Nam của
Nguyễn Lân dày đến 2111 trang, tương đương từ điển Petit Larousse nhưng dung lượng chữ thì chưa bằng một phần ba so với
từ điển Petit Larousse.
Từ điển là loại
công trình biên khảo đòi hỏi người biên soạn vừa phải xem xét kỹ càng những thành tựu của nhứng người đi trước, vừa
phải nghiền ngẫm bổ sung những thiếu sót, khắc phục những sai lấm, những nhược
điểm của các soạn giả tiền bối, phải mở rộng và đào sâu hơn nữa cách giảng giải
những từ ngữ đa dụng nhất, thiết yếu nhất và mới mẻ nhất. Một quyển từ điển mới, nếu không vượt hẳn những
quyển từ điển cũ cùng loại thì cũng phải có
mặt nào đó ưu việt hơn, tiện dụng hơn, sâu rộng hơn. Các quyển Tư điển từ và ngữ Hán – Việt và Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn
Lân đều thuộc loại từ điển phổ thông, tức là từ điển thông dụng, không đi sâu và một lĩnh vực khoa
học hoặc công nghệ nào cả nhưng vẫn phải bao gồm những từ ngữ khoa học và kỹ
thuật thông dụng trong đời sống hàng ngày.
Trước khi nhà
giáo Nguyễn Lân biên soạn hai cuốn từ điển này, đã có khá nhiều cuốn khác có
tên gọi và mục đích tương tự. Về từ điển Hán – Việt, trước hêt phải kể đến cuốn
Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào
Duy Anh xuất bản từ năm 1932 và đến nay vẫn được in lại. Từ năm 1955 đến trước năm 1975, ở Sài Gòn cũng
xuất hiện thêm một số cuốn từ điển Hán Việt khác nữa, như Hán – Việt tân từ điển của Hoàng Thúc Trâm, Hán – Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn, Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng. Về từ điển tiếng Việt,
trước hết phải nói đến cuốn Đại Nam quốc
âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (xuất bản tại Sài Gòn năm 1895), sau đó
là Việt Nam từ điển của Hội Khai trí
tiến đức (Hà Nội, Trung bắc tân văn, 1931), Việt
Nam tân từ điển của Thanh Nghị (Sài Gòn, 1951), Từ điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (Sài Gòn, 1952), Từ diển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên
(Hà Nội, 1967), Việt Nam tự điển của
Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (Nxb Khai trí, Sài Gòn, 1970), Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội, 1988). Đó là những
cuốn từ điển nghiêm túc và là nguồn tư liệu tham khảo rất tốt cho những người
biên soạn từ điển Hán – Việt và từ điển tiếng Việt tiếp theo.
2.
Khảo sát Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân
Về cuốn Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh, không ai có thể phủ nhận giá trị khoa học và giá trị thực dụng của nó. Nhưng,
việc biên soạn những quyển từ điển Hán – Việt mới để thay thế nó hoặc để bổ
sung cho nó là điều rất cần thiết, bởi vì, nó vẫn là một quyển từ điển giản yếu, lại được biên soạn từ trước
năm 1932 nên không thể ứng đáp được nhu cầu học tập và nghiên cứu ngày càng
tăng của các thế hệ về sau. Đó là lý do dẫn đến sự ra đời của những cuốn Hán Việt
từ điển khác. Các quyển Hán – Việt từ điển của Hoàng Thúc Trâm, của Nguyễn Văn Khôn và của Nguyễn Quốc Hùng, đều có những ưu điểm, những
thế mạnh, rất bổ ích và cần thiết. Tuy nhiên, đó vẫn là những cuốn từ điển nhỏ,
như chính soạn giả Nguyễn Quốc Hùng đã ghi nhận trong Lời nói đầu “Ước
mong cuốn từ điển nhỏ này giúp ích phần nào cho quý độc giả, nhất là các bạn học
sinh”. Ông chưa có chủ ý biên
soạn từ điển cho những “người lớn” như
các thầy giáo, các nhà văn, nhà báo, nhà
nghiên cứu, v.v. vì việc đó đòi hỏi rất nhiều công sức nên chưa làm được.
Từ
điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân ra đời
năm 1987, sau cuốn Hán – Việt từ điển giản
yếu của Đào Duy Anh (1932) đúng hai phần ba thế kỷ, và sau ba cuốn từ điển Hán- Việt khác từ hơn 10
năm đến hơn 20 năm. Nếu nhà giáo Nguyễn Lân sử dụng một trong bốn quyển ấy làm
sườn chính rồi rà soát những quyển khác để nhặt thêm nhứng từ ngữ mà ở quyển
chính không có, sau đó, sửa chữa, chỉnh lý, thêm những gì mình thấy cần thiết
và đã hiểu biết đầy đủ, bớt những gì mình còn nghi ngại mà chưa tra cứu được, v.v. thì cũng đủ để có một quyển từ điển Hán
– Việt khá tốt và có dung lượng khá lớn, khắc phục được những nhược điểm của quyển
chính và vẫn có những đặc điểm sáng tạo riêng, Đối với một người có tri thức vững
chắc, tra cứu được nhiều sách Hán ngữ xưa và nay thì việc này tuy tốn nhiều
công sức nhưng cũng không quá khó. Nếu là bậc học giả đích thực thì có thể làm
hơn thế rất nhiều.
Nay chúng ta hãy khảo sát Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của
Nguyễn Lân và so sánh nó với vài quyển từ điển Hán – Việt đã ra đời trước
nó, trước hết là vể dung lượng, sau
đó là về độ tin cậy. Để quý vị độc
giả dễ kiểm chứng, chúng tôi sẽ so sánh Từ
điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn
Lân (1989) với Hán Việt từ điển giản yếu của
Đào Duy Anh (1932) và với Hán
– Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng.(1975).
● Từ điển từ và ngữ Hán – Việt
của Nguyễn Lân in trên khổ giấy 14 x 21 cm (cùng khổ giấy với Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh), mỗi trang có 38 dòng, gồm 865 trang, .
● Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh gồm quyển thượng và quyển hạ, tổng cọng có 592 + 604 = 1196 trang, khổ giấy
14 x 21cm. mỗi trang có 40 dòng.
● Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc
Hùng gồm 871 trang, khổ giấy 16 x 24cm, mỗi trang có 48 dòng.
Nếu in theo mật độ của Từ điển từ và ngữ Hán -Việt (mỗi trang
có 38 dòng) thì Hán Việt từ điển giản yếu
của Đào Duy Anh sẽ có số trang là
N1
= 1196 x (40 / 38) x (40 / 38) = 1326
trang;
và Hán
Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng sẽ có số trang là:
N2 = 871 x (48 / 38) x (48 / 38) =
1390 trang,
Gọi số trang của Từ điển từ và ngữ
Hán -Việt của Nguyễn Lân là N0 .
ta có các tý số:
N0
/ N1 = 865 / 1326 = 65,23%; và N0
/ N2 = 865 / 1390 =
62,23%.
Như vậy, Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân chỉ có thể có dung lượng
tối đa (nếu không có những trang quá ít chữ) bằng khoảng 65% so với Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh. Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn
Quốc Hùng nhằm vào đối tượng là học sinh, cần nhiều lời để giới thiệu về các
nhân vật lịch sử, các văn nhân và nhiều tác phẩm Hán – Nôm, phải lược bớt nhiều
từ ngữ ít thông dụng, nên số từ ngữ ít hơn từ điển của Đào Duy Anh. Trong cả ba
quyển thì Từ điển từ và ngữ Hán – Việt
của Nguyễn Lân có dung lượng nhỏ nhất.
Cần chú ý rằng, trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân có 25 trang ở đầu mỗi vần
chữ cái như A, Ă, Â, B, C, D, Đ...., mỗi
trang chỉ có 17 dòng. Phải chăng, đây là một cách làm tăng số trang để cho cuốn
từ điển dày thêm chút ít. Nếu tinh đến điều
này thì dung lượng chữ của Từ điển từ và
ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân chưa bẳng
60% so với Hán Việt từ điển giản yếu của
Đào Duy Anh. Dưới đây (từ trái sang phải) lần lượt là hình ảnh các trang đầu vần A trong các quyển từ điển của
các soạn giả Nguyễn Lân, Đào Duy Anh, Nguyễn Quốc Hùng.
Ngoài ra, mọi mục từ ngữ trong từ điển của Nguyễn Lân đều kèm theo một câu ví dụ, phần lớn là không cần thiết, nhiều khi rất nhạt nhẽo, vô ích, làm tốn giấy mực. Xin nêu một số ví dụ:
Ngoài ra, mọi mục từ ngữ trong từ điển của Nguyễn Lân đều kèm theo một câu ví dụ, phần lớn là không cần thiết, nhiều khi rất nhạt nhẽo, vô ích, làm tốn giấy mực. Xin nêu một số ví dụ:
● Theo Nguyễn Lân :
NGỌC HOÀNG (hoàng: vua): Từ chỉ thượng đế, theo quan niệm mê tín (cũ) Khói lên đến tận thiên tào, ngọc hoàng phán hỏi:
Mụ nào đốt rơm (Ca dao)
NGỌC
LAN (lan: cây hoa
lan): Loài cây mộc trắng và thơm. Hái hoa
ngọc lan cài lên tóc.
NGỌC
NỮ (nữ: đàn bà): Nàng
tiên (cũ). Bức tranh vẽ tiên đồng và ngọc nữ ;
NGỌC
THẠCH (thạch: đá): Thứ
đá quý màu xanh nước biển. Đôi vòng ngọc
thạch có nạm vàng
NGỌC THỂ (thể: thân người): Từ xưa kia dùng để
nói một cách kính cẩn đến sức khỏe của
người khác. Xin chúc ngài ngọc thể
an khang.
● Theo Đào Duy Anh :
Ngọc hoàng 玉皇 Đạo giáo xưng thần trời là ngọc hoàng.
Ngọc lan 玉蘭
(Thực) Thứ cây mùa xuân nở hoa trắng thơm lắm
Ngọc nữ 玉 女 Tiếng tôn xưng
con gái người khác --- Tiên nữ --- con gái đẹp
Ngọc thạch 玉 石 Ngọc và đá
--- Cái quý và cái tiện ---- Thứ
đã quý
Ngọc thể 玉 體 Tiếng tôn xưng thân thể người khác
● Theo Nguyễn Quốc Hùng :
NGỌC HOÀNG 玉 皇 Chỉ trời (tiếng
của các đạo gia thời xưa). Cũng gọi là Ngọc hoàng Thượng đế
NGỌC LAN 玉 蘭 Tên một loài
cây có hoa trắng rất thơm
NGỌC NỮ 玉 女 Tiếng chỉ con gái của người khác - cô tiên nhỏ tuổi - Người con gái đẹp.
“ Đôi bên ngọc nữ tiên đồng phân ban” (Thơ
cổ)
NGỌC THẠCH 玉石 Ngọc và đá, ý so sánh cái cao quý và cái thấp
hèn -- Thứ đá quý giống như ngọc
NGỌC THỂ 玉體 Tiếng gọi thân xác người khác.
Nhận xét:
● Ở 5 ví dụ này, Nguyễn Lân sử dụng
112 “chữ” (= từ đơn âm), không kèm theo
chữ Hán. Đào Duy Anh sử dụng 72 “chữ”, trong đó có 10 chữ Hán; Nguyễn Quốc Hùng sử dụng 99 “chữ”; trong đó có
10 chữ Hán; Nguyễn Quốc Hùng sử dụng nhiều chữ hơn Đào Duy Anh vì có những chố diễn
đạt cho học sinh dễ hiểu hơn, và có trích dân 1 câu thơ cổ. Nguyễn Lân sử dụng
số chữ nhiều gấp rưỡi so với Đào Duy Anh
là vì cứ mỗi mỗi từ ngữ đều kèm theo một câu ví dụ mà hầu hết đều nhạt nhẽo và
không cần thiết. Đáng lẽ Nguyễn Lân chỉ
cần sử dụng 60% số chữ là đã đủ ý.
● Về việc giảng nghĩa, Đào Duy Anh và Nguyễn
Quốc Hùng giảng giống nhau, đúng như trong các từ điển Hán ngữ của Trung Quóc và
cũng đúng với mọi nghĩa trong tiếng Việt. Các từ ngọc nữ và ngọc thạch đều
có 3 nghĩa thì Nguyễn Lân chỉ nêu được một nghĩa, bỏ mất hai nghĩa quan trọng. Ngọc hoàng là Ông Trời
hay Thần trời, hay Thượng đê theo cách gọi của Đạo giáo
nên cần phải giải thích như Đào Duy Anh và
Nguyễn Quốc Hùng đã viết. Nguyễn Lân đã giảng từ này chưa đúng hẳn, lại bày tỏ
thái độ phê phán, vừa tốn giấy mực, lại không hợp với mục đích, yêu cầu và tính khách quan của từ điển.
● Ông Nguyễn Lân luôn
luôn giảng giải rông dài, hay thêm thắt những lời lẽ vô ích. Số lượng chữ cần
thiết chỉ khoảng 60% mà thôi. Do đó, ước tính Từ điển từ và ngữ Hán-Việt của
Nguyễn Lân có dung lượng từ ngữ chỉ
bằng 60% x 65, 23% =39,1% so với cuốn Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh. Đó là chưa kể đến
vô số trường hợp thiếu nghĩa và sai
nghĩa ở từ điển của Nguyễn Lân, như
chúng ta đã thấy.
¢ Sau đây, để thấy rõ rằng, dung lượng từ ngữ thực
tế trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt
của Nguyễn Lân so với Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh còn thấp hơn con số 65% (hoặc dưới
62% so với Hán – Việt tân từ điển
của Nguyễn Quốc Hùng) rất nhiều, chúng ta hãy xem xét tất cả các từ ngữ có từ tố đầu
tiên là “bạch” ở cả 3 cuốn từ điển
● Ở Hán – Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh (gồm 2 chữ Hán có
âm là “bạch” và 109 từ, ngữ có âm tố đầu
tiên là bạch 白, kèm theo chữ Hán):
∗ 2
chữ Hán có âm là “bạch”:
鉑 = chất kim thuộc thể chắc; 白 = Trắng – Sạch sẽ -- Rõ
ràng – Bày tỏ ra
∗ 109
từ, ngữ có âm tố đầu tiên là bạch 白 (kèm theo chữ Hán):
bạch bích 白璧, bạch bố 白布, bạch cập 白芨 , bạch câu quá
khích 白駒過隙, bạch chỉ 白芷, bạch chiến 白戰 , bạch chủng
白種,
bạch cốt 白骨,bạch cúc 白 菊, bạch cung 白宮, Bạch Cư Dị 白居易 , bạch cương
tàm 白殭蠶,
bạch da 白茄 , bạch dân 白民, bạch diên
khoáng 白鉛礦, bạch diện thư sinh 白面書生 , bạch dương 白楊 , bạch đả 白打, bạch đàn 白檀 , bạch đảng 白黨, bạch đạo 白道, Bạch đằng 白藤 , bạch đầu 白頭, bạch đầu ông 白頭翁, bạch đầu thiếu
niên 白頭少,
bạch đậu khấu 白荳蔻,
bạch địa 白地, bạch điến phong 白癜瘋 , bạch đinh 白丁, bạch đoạt 白奪 , bạch đồ 白徒 , bạch đồng nữ
白童女
, bạch đới 白帯, bạch hạc thảo
白鶴草,
bạch hắc phân minh 白黑分明 , bạch hầu 白喉, bạch hổ 白虎 , bạch huyết bệnh
白血
病,
bạch huyết cầu 白血球, bạch hùng 白熊, bạch y 白衣, bạch yến 白燕, bạch khế 白契, bạch kim 白金, bạch lạp 白蠟, bạch lỵ,白痢, Bạch liên giáo 白蓮教 bạch liên tử 白蓮子, bạch lộ
白露,
bạch ma 白厤, bạch mai 白梅, bạch mao 白茅, bạch môi 白煤, bạch nghị 白蟻, bạch ngọc vi
hà 白玉微瑕,bạch nguyệt 白月, bạch ngư 白魚, bạch nhãn 白眼 , bạch nhân 白人, bạch nhật 白日, bạch nhật quỉ
白日鬼,
bạch nhật thăng thiên 白日升天, bạch nhiệt 白熱, bạch nhiệt
đăng 白熱燈
, bạch nội chướng 白內障, bạch ố 白惡 , Bạch ố kỷ 白惡紀, bạch ốc 白屋, bạch ốc xuất
công khanh 白屋出公卿, bạch phàn 白礬 , bạch
phát 白髮 , bạch phấn 白粉, bạch phấn đằng
白粉藤
, bạch phụ tử 白附子, bạch phục linh 白茯苓, bạch quả 白果, bạch si 白癡, bạch sĩ 白士, bạch sơn 白山, bạch thái 白菜, bạch thân 白身, bạch thiên 白天, bạch thiếp 白帖, bạch thiết 白鐵, bạch thính 白聽, bạch thoại 白話, bạch thoại
văn 白話文,
bạch thốn trùng 白寸蟲, bạch thủ 白首, bạch thủ 白手, bạch thủ
thành gia 白手成家, bạch thuyết 白說, bạch thược 白芍 , bạch tiển 白癬, bạch tô 白蘇, bạch trọc 白濁 , bạch trú 白晝 , bạch truật 白朮 , bạch tuyết 白雪 , bạch tùng 白松 , bạch tùng du
白松油,
bạch vân 白雲 , Bạch vân am 白雲庵 , bạch vân thạch
白雲石
, bạch vân thương cẩu 白 雲蒼狗, bạch vân tư
thân 白雲思親 , bạch viên 白猿 , bạch vọng 白望 , bạch xỉ 白齒 .
● Ở Hán
– Việt tân từ điển của Nguyễn
Quốc Hùng (gồm 78 từ ngữ, kèm theo chữ Hán):
∗ 2 chữ Hán có âm là “bạch”:
帛 = Lụa trắng. – Họ người; 白 = Màu trắng – Trong sạch.
Trong trắng – Sáng sủa. Rõ ràng. Chẳng hạn như Biện bạch (nói rõ) – Làm cho rõ
ràng – Chẳng có gì. Trống không – Họ người.
∗ 78 từ, ngữ có âm tố đầu tiên là bạch 白 (kèm theo chữ
Hán):
bạch điệp 帛疊,bạch thư 帛書; bạch bích 白璧, bạch bố 白布, bạch bút 白筆, bạch câu 白駒,
bạch
câu quá khích 白駒過隙, bạch cốt 白骨,
bạch
cung 白宮,
bạch chỉ 白芷, bạch chiến 白戰, bạch chủng
白種,bạch
cúc 白
菊,
bạch dân 白民, bạch diện 白面 , bạch dương 白楊 , bạch đả 白打, bạch đái
白帯,
bạch
đầu ông 白頭翁, bạch địa 白地, bạch đinh 白丁, bạch đoạt 白奪, bạch đồ 白徒 , bạch giản 白简 , bạch hắc 白黑, bạch hầu 白喉, bạch hổ 白虎 , bạch huyết bệnh
白血
病,
bạch huyết cầu 白血球,
bạch khế 白契, bạch kim 白金, bạch lạp 白蠟, bạch lộ
白露,
bạch lỵ 白痢,bạch mai 白梅, bạch môi 白煤, bạch my 白眉,bạch ngọc 白玉,bạch ngọc vi hà
白玉微瑕,bạch nguyệt 白月, bạch ngư 白魚, bạch nghị 白蟻 bạch nghiệp 白業, bạch nhãn 白眼
bạch
nhân 白人,
bạch nhật 白日, bạch nhật quỉ 白日鬼, bạch nhật
thăng thiên 白日升天, bạch nhiệt đăng 白熱燈 , bạch ốc 白屋, bạch
phát 白髮, bạch quả 白果, bạch quyển 白卷, bạch sam 白衫,
bạch
sĩ 白士,
bạch tàng 白藏, bạch tẩu 白叟, bạch tuyết 白雪,bạch tương 白相,bạch tỳ 白砒, bạch thái 白菜, bạch thân 白身, bạch thỏ 白兔, bạch thoại 白話, bạch thổ 白土, bạch thủ 白首, bạch thủ 白手, bạch thủy 白水, bạch thuyết 白說, bạch thương 白商, bạch thược 白芍, bạch trọc 白濁 , bạch trú 白晝, bạch truật 白朮, bạch vân 白雲, bạch vân hương
白雲鄉, bạch vân thi 白雲詩, bạch vân quốc
ngữ thi 白雲國語詩 bạch y 白衣 , bạch yến 白燕
● Ở Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân (gồm 34 từ ngữ, không
có chữ Hán):
∗ 1 chữ có âm là “bạch”: Bạch = Trắng;
rõ ràng
∗ 34 từ ngữ có âm tố đâù tiên là “bạch”
bạch cầu, bạch chủng,
bạch cúc, bạch cung, bạch diện thư sinh, bạch dương, bạch đái, bạch đàn, bạch đầu,
bạch đầu quân, bạch đậu khấu, bạch điến, bạch đinh, bạch định, bạch hầu, bạch hổ,
bạch huyết, bạch huyết cầu, bạch kim, bạch lạp, bạch mi, bạch nhật, bạch ốc, bạch
phát, bạch quỷ, bạch tạng, bạch thỏ, bạch thoại, bạch thổ, bạch thủ, bạch thủ
thành gia, bạch tuyết, bạch viên, bạch yến.
Nhận xét
Ở ví dụ này, Đào
Duy Anh và Nguyễn Quốc Hùng đều nêu hai chữ Hán có âm là “bạch”. Về chữ bạch 白, Đào Duy Anh nêu 4 nghĩa, Nguyễn Quốc Hùng nêu 6 nghĩa, Nguyễn Lân nêu
hai nghĩa, là trằng và rõ
ràng. Trong từ điển của Nguyễn Lân, số từ ngữ
có âm tố “bạch” đứng đầu là 34, chỉ bằng
một phần ba so với từ điển của Đào duy Anh (109), và chưa bằng một nửa một nửa
so với từ điển của Nguyễn Quốc Hùng
(78).
Trong số 34 từ ngữ này, ông Nguyễn Lân đã có lời
giảng giải sai ở các từ bạch tạng, bạch
đái , bạch yến. Ngoài ra, còn có hai từ là bạch định và bạch thủ
cũng có vấn đề cần bàn luận.
● Từ bạch tạng không có mặt
trong từ điển của Đào Duy Anh và của Nguyễn Quốc Hùng. Phải chăng, các soạn giả này đã bỏ sót từ này,
và ông Nguyễn Lân đã “tinh ý” phát hiện được để đưa nó vào Từ điển từ và ngữ Việt nam ?. Hãy xem lời giảng giải cua ông Nguyễn Lân.:
BẠCH TẠNG (tạng = khí quan trong ngực và trong
ngực) = Bệnh thiếu sắc tố, khiến cho tóc vàng hoe và da biến thành màu trắng từng
mảng hay toàn thân. Người bạch tạng vẫn
có thể khỏe mạnh.
Theo y học
Trung Hoa thì trong cơ thể người có “ngũ tạng” 五臟 là tâm, can, tỳ, phế, thận (tim, gan, lá lách,
phổi, thận). Nếu đúng như lời
giảng của học giả Nguyễn Lân thì phải chăng, người bạch tạng có 5 khí quan ấy
màu trắng và có biểu hiện bên ngoài là “ tóc vàng hoe và da biến thành màu trắng
từng mảng hay toàn thân“?. Xin thưa rằng, từ tố “tạng” ở đây không có nghĩa như
nhà khoa hoc Nguyễn Lân đã dạy, mà có nghĩa là “thể chất”, là đặc tính
riêng của từng cơ thể người. Trong cuốn Từ điển Việt Hán (xuất bản ở Bắc Kinh
năm 1960, do một số học giả Trung Quốc gồm Hà Thành, Trịnh Ngọa Long, Chu Phúc
Đan.... biên soạn), từ tạng (tiếng
Việt) được giảng giải như sau (các chữ trong ngoặc đơn là của LMC phiên âm các
chữ Hán):
Tạng u 臟 (tạng),
lục phủ, ngũ tạng 五 臟 六 腑
(ngũ tạng lục phủ) v 体質
(thể chất), tạng khỏe 体 質 好, 强 壮(thể chất hảo, cường tráng).
Các học giả
Trung Quốc đã phân biệt rất rõ hai nghĩa của từ “tạng” trong tiếng Việt. Trong các quyển Từ điển
Việt – Pháp của Đào Văn Tập hay của Đào Đăng Vĩ xuất bản ở Sài Gòn cách đây hơn 60 năm, các
soạn giả này cũng phân biệt rất rõ hai nghĩa ấy. Ví dụ, Đào Văn Tập viết:
Tạng = Viscères. Ngũ tạng = les cinq viscères. ║ Complexion,
constitution du corps. Tạng khỏe: solid complexion. Tạng yếu: faible constitution.
Từ bạch
tạng (hoặc chứng bạch tạng) trong
tiếng Việt tương ứng vớ từ albinisme
trong tiếng Pháp (= albinism = albinismus
trong tiếng Anh). Hán ngữ thì gọi chứng
này là 白化病 (bạch hóa bệnh =
bệnh hóa trắng) hoặc 白化現象
(bạch hóa hiện tượng = hiện tượng hóa trắng).
Chính vì từ “bạch tạng” không tồn tại trong Hán ngữ nên nó không thể có mặt
trong mọi quyển từ điển Hán – Việt. Chỉ vì “siêu học giả” Nguyễn Lân không hiểu
được nghĩa thứ hai của từ tố “tạng”nên mới
đưa vào quyển Từ điển từ và ngữ Hán – Việt
của ôn, kèm theo việc “chú giải từ tố” sai hoàn toàn.
● Từ bạch đái (hoặc bạch đới) được ông Nguyễn Lân giải thích:
BẠCH ĐÁI
(bạch = trắng, rõ ràng; đái = đeo lấy) = Bệnh khí hư của phụ nữ. Một nguyên nhân của bệnh bạch đái là sự thiều
vệ sinh.
Theo lời giải
thích của nhà giáo Nguyễn Lân thì bạch đái là tên một thứ bệnh. Vậy, nó phải là
một danh từ, nhưng, cũng theo ông, đái = đeo lấy, là một động từ, hay ít nhất
thì cũng là một từ chỉ hành động. Trong Hán ngữ, chữ đái 帶
có nghĩa gốc là cái đai áo,tức là dải băng rộng ở cái áo dài để thắt ngang thắt lưng, từ đó nó có nghĩa mở rộng
là cái dải, là vật có dạng dải, rồi sinh ra nghĩa mới là đeo, là mang vào. Trong từ bạch đái, thì đái nghĩa
là dải.
Bạch
đái hay bạch đới là dải trắng sền
sệt chảy ra từ âm đạo của phụ nữ, còn gọi là khí hư. Ông Nguyễn lân đã dùng từ khí hư để giải thích từ bạch
đái. Nếu độc giả không biết từ bạch
đái thì ít khi biết từ khí hư, lại
phải tra cứu , nhưng trong Từ điển từ và
ngữ Hán – Việt chỉ có từ bạch đái
mà không có từ khí hư. Lời giảng của ông Nguyễn Lân về từ bạch đái tuy không sai nhưng không đạt
yêu cầu, còn việc “chú giải từ tố” thì sai.
.
● Ở từ bạch yến, ông Nguyễn Lân viết:
BẠCH YẾN (yến: chim én) = Chim én trắng.
Nuôi đôi bạch yến trong lồng
Chim én thường
có lông trắng ở phía bụng và ở mặt dưới của cánh, còn ở phía lưng thường đen
hoàn toàn hoặc chỉ có một đám trắng nhỏ ở cuối thân, sát đuôi. Vì vậy, không ai nhìn thấy chim én trăng,. hoặc nếu có
thì đó là trường hợp rất đặc biệt. Theo từ điển Từ nguyên, người Trung Hoa cổ đại coi bạch yến là tượng trưng cho
điềm lành hiếm có, Cũng nên nhớ rằng, không thể nuôi chim én trong lồng, nó chỉ
đậu khi ngủ hoặc khi nghỉ ngơi trong chốc lát, và luôn luôn phải bay lượn để đớp mồi trong không khí. Nếu
bị nhốt, chim én sẽ chết vì nó chỉ quen bay lượn, không thể sống gò bó một chỗ.
Hơn nữa, chỉ những loại chim rất đẹp hoặc
hót rất hay thì người ta mới nuôi trong lồng để thưởng thức vẻ đẹp hoặc tiếng
hót. Chim én không có hai đặc điểm ấy.
Đành
rằng, trong Hán ngữ, yến 燕 nghĩa là chim
én, nhưng trong tiếng Việt, từ yến (tên chim), ngoài nghĩa ban đầu là chim én,
về sau đã được mở rộng để chỉ vài loại chim khác nữa. Cách đây hơn một thế kỷ,
một loài chim đẹp và hót hay, có nguồn gôc từ Quần đảo Canaria (ở Đại Tây
Dương, thuộc Tây Ban Nha) được người châu Âu thuần dưỡng và đưa đến nhiều nước,
trong đó có Việt Nam và có tên bằng tiếng Việt là chim Yến (tiếng Phap là
Serin, tiếng Hoa là Kim ty tước 金絲雀). Để phân biệt với chim Én, người ta gọi thứ chim mới
lạ này là chim Yến cảnh hoặc chim Yến hót. Loại chim Yến này có danh pháp
ba phần là Serinus canaria domestica (gồm các biến chủng như Bạch Yến, Hồng Yến,
Hoàng Yến, ...) thuộc họ Fringillidae (ở Việt Nam gọi là họ Sẻ thông hoặc họ Sẻ đồng, ở Trung Quốc goi là
họ Yến tước 燕 雀). Từ giữa thế kỷ 20, từ Yến được mở rộng
thêm nữa để chỉ loại chim giống như Én (mà
trước đây vẫn được coi lả Én) dùng nước bọt có chất keo để gắn tổ vào vách
đá hoặc để làm tổ.
● Về từ bạch định, ông Nguyễn Lân giảng giải:
BẠCH ĐỊNH (định: việc xong rồi) = Bài tổ tôm ù
không có quân đỏ nào.
Ù bạch định không bằng ù chi chi này
Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của thì bạch định
= trắng xanh, màu trắng nhiều, màu xanh ít. Chiếu
bạch định; chén bạch định. Tra cứu ký hơn thì biết rằng, ở Trung Quốc ngày
xưa có loại đồ sứ quý, sản xuất ở cac thôn Giản Tư, Dã Bắc, thuộc huyện Khúc
Dương (thịnh hành nhất là thời Tống, chấm
dứt ở thời Nguyên), thời Tống thuộc Định Châu, tỉnh Hà Bắc nên gọi là Định từ 定瓷
(từ 瓷 nghĩa là đồ sứ; Định từ nghĩa là đồ sứ
Định Châu), gồm các loại hắc định 黑定
(màu đen), lục định 綠定 (màu xanh
lá cây), tử định 紫定 (màu tím),
bạch định 白定 (màu trắng).
Như vậy, từ bạch định có nghĩa ban đầu là loại đồ sứ Định Châu màu trắng – xanh nhạt; về sau thường có nghĩa là màu trắng
– xanh nhạt. Ông Nguyễn Lân đã giảng giải
từ này theo cách hiểu của giới cờ bạc chứ
không giảng được nghĩa thật của từ này.
●
Ở mục từ bạch thủ, soạn giả Nguyễn
Lân giải thích:
BẠCH THỦ
(thủ: tay) = 1.Tay trắng (cũ). 2.Nói khi đánh tổ tôm, trên tay chỉ còn lẻ một đôi con bài giống nha, không dính
dáng vào đâu, phải chờ đúng
con bài ấy lên mà ù. Thập thành mà bị bạch
thủ ut tay trên.
Ở nghĩa thứ nhất, nên nói rõ: tay trắng nghĩa là tay không, thường được
hiều là không có tài sản hay cơ nghiệp gì cả. Nghĩa thứ hai mà ông Nguyễn Lân
nêu lên cũng thuộc về nghề cờ bạc. Tất cả các từ điển khác của Trung Quốc và của Việt Nam đều không biết đến thuật ngữ
cờ bạc này. Phải chăng, thế mạnh của soạn
giả Nguyễn Lân là ở chỗ đó?
Việc xem xét nhóm từ ngữ Hán – Việt
thuộc “họ Bạch”trong ba quyển từ điển đã cho thấy rõ
rằng, Từ điển từ và ngữ Hán – Việt
của Nguyễn Lân có dung lượng quá nhỏ, rất nghèo nàn, rất ít từ ngữ, có rất nhiều
từ bị giảng thiếu nghĩa hoặc sai nghĩa.
Ở trên kia đã ước
tinh, dung lượng từ ngữ trong Từ điển từ
và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân chỉ bằng khoảng 37% so với Hán – Việt từ điển giản yêu của Đào Duy
Anh (gồm 40 000 từ ngữ). Việc tính toàn cụ thể số từ ngữ ở từng vần chữ cái trong Từ
điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân được ghi trong bảng sau đây:
A
= 163
Â
= 113
B
= 869
C
= 1466
2611
|
D
= 545
Đ
= 970
G
= 333
H
= 1094
2942
|
I = 6
K=
689
L=
530
M=
283
1508
|
N=
851
O=
32
Ô=
24
P=
664
1571
|
Q
= 381
S
= 396
T
= 3833
U
= 59
4669
|
Ư
= 55
V
= 436
X
= 193
Y
= 77
761
|
Tổng cọng : 2611 + 2942 + 1508 + 1571 + 4669 + 761 = 14062
Từ điển từ và
ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân hoàn toàn gồm
những từ ngữ rất đơn giản như ở mọi cuốn từ điển nhỏ khác, không hề có gì mới mẻ, nhưng chỉ thu
thập được 14 062 từ ngữ, bằng 35,16%
so với dung lượng Hán Việt từ điển giản yếu
của Đào Duy Anh, Nên nhớ rằng, quyển
Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy
Anh ra đời từ năm 1932. Vậy mà sau 67 năm, đúng hai phần ba thế kỷ,xã
hội đang cần một cuốn từ điển đầy đủ hơn, dễ hiểu hơn, có dung lượng lớn gấp
đôi hoặc ít ra cũng gấp rưỡi so với quyển trước đó, thì được nhà giáo Nguyễn
Lân đáp ứng bằng một một sản phẩm quá nghèo nàn, chỉ bằng một phần ba (tức là chỉ bằng
một phần năm hoặc một phần sáu so với yêu cầu), lại còn phạm vô số sai lầm nghiêm trọng rất
đáng xấu hổ. Biên soạn một cuốn từ điển như thế không những có gì khó khăn, mà còn là
một việc rất có hại, vừa tốn giấy mực, lại còn gieo rắc những cách hiểu sai trong tiếng Việt.
3. Lướt qua Từ điển từ và ngữ Việt Nam của
Nguyễn Lân
Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn
Lân ra đời năm 2000, sau cuốn Đại Nam quốc
âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (1202 trang, khổ 14 x 21cm, xuất bản tại
Sài Gòn năm 1895) hơn 100 năm, và sau các cuốn Việt Nam từ điển của Hội Khai trí tiến đức (Hà Nội, Trung bắc tân
văn, 1931), Việt Nam tân từ điển của
Thanh Nghị (Sài Gòn, 1951), Từ điển Việt
Nam phổ thông của Đào Văn Tập (Sài Gòn, 1952), Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967), Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ (Nxb Khai trí, Sài Gòn, 1970), Từ điển
tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội, 1988). Trong các từ điển này, đáng chú ý nhất là Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ, gồm 2 tập, tổng cọng là 2861 trang in cùng khổ giấy với từ điển của Nguyễn
Lân (16 x 24cm, với 48 dòng/trang) nhưng mật độ chữ cao hơn (52 dòng/trang) nên
tương đương với 3358 trang của Nguyễn Lân. Nói cách khác, Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân có dung lượng chữ in
(chưa xét đến dung lượng từ ngữ) dưới 63% so với Việt Nam từ điển do Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ biên soạn trước đó 30
năm. Như vậy, khi biên soạn Từ điển từ và
ngữ Việt Nam, soạn giả Nguyễn Lân đã có một số tài liệu tham khảo bằng tiếng
Việt khá phong phú để biên soạn một bộ từ điển tiếng Việt lớn nhất và tốt nhất
hiện nay, nếu ông có trình độ tương xứng.
Khảo sát văn bản
cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam của
Nguyễn Lân thì thấy ngay rằng, số lượng từ ngữ trong quyển này chủ yêu được tập
hợp từ ba nguồn chính là: u Từ điển tiếng Việt (Nxb Khoa học Xã hội, 1991, 1415 trang, Văn Tân
chủ biên, với sự tham gia của 12 biên tập
viên khác, trong đó có Nguyễn Lân), v Từ điển từ và ngữ Hán – Việt của Nguyễn Lân (Nxb TP Hồ Chí Minh, 1989, 865 trang); w Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam của
Nguyễn Lân. (Nxb Văn hóa, 1990, 323 trang).
Soạn giả cũng bổ sung một ít từ đã từng có ở các quyển từ điển khác. Hai quyển
Từ điển từ và ngữ Hán – Việt và Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam được chép lại gần như hoàn toàn, mà quyển nào cũng đầy
rẫy những sai lầm rất nghiêm trọng.. Số từ ngữ Hán – Việt trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam cũng được bổ sung thêm nên càng
nhiều sai lầm hơn ở Từ điển từ và
ngữ Hán – Việt . Ví dụ, từ viên
môn chỉ xuất hiện ở Từ điển từ và
ngữ Việt Nam.
Cả ba quyển từ
điển vừa kể gộp lại đã đủ để tạo thành một quyển từ điển mới có độ dày hơn 2000
trang. Nếu các quyển này đã được lên khuôn in trên máy tính thì việc lắp ghép
thành một quyển (sắp xếp lại thứ tự của các mục từ trong quyển “tổng hợp”) là một
công việc cực kỳ đơn giản, chỉ mất vài giờ làm việc trên máy tính là xong. Nhưng
nếu không có sẵn các bản đánh máy trên máy tính thì phải đánh máy lại, tốn công
hơn một chút nhưng cũng chẳng khó khăn gì, soạn giả có thể nhờ con cháu làm
giúp, hoặc thuê người hai người làm
trong một tháng là xong. Nói tóm lại, công đoạn dựng cái khung cho cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam khoảng 2000
trang, rồi trên cơ sở đó mà sửa chữa, thêm, bớt để làm thành một quyển từ
điển mới là một việc rất dễ dàng, ai cũng có thể làm được, không cần đến năng lực
của một học giả. Khi bắt tay vào việc biên soạn một cuốn từ điển mới thì ai
cũng phải dựng một bộ khung như thế để dựa
vào đó mà biết nên thêm những gì, bớt những gì.. Điều quan trọng nhất là sau
đó, trong quá trình sửa chữa, thêm, bớt,
chỉnh lý, soạn giả phải có kiến thức sâu rộng để phát hiện những chỗ thiếu, những
chỗ sai sót, hoặc chưa thỏa đáng trong
cái sườn phác thảo ấy, phải có năng lực tra cứu các nguốn tư liệu xưa và nay, trong
dân gian, trong sách vở quốc văn và ngoại văn để giảng giải chính xác và thỏa
đáng về nhiều khái niệm khó mà từ trước đến nay bị hiểu sai, bị giải thích
sai hoặc chỉ được giải thích một cách gượng ép, hời hợt, rồi
bổ sung thêm những mục từ, những lời giảng cần thiết để tăng thêm bề sâu và bề
rộng của cuốn từ điển mới. Đó mới là điều làm nên giá trị của cuốn từ điển và
là cống hiến của người biên soạn nghiêm túc, biết tự trọng và có trách nhiệm
trước công chúng.
Nhà biên soạn từ
điển Nguyễn Lân đã không mảy may thực hiện
được những đòi hỏi vừa kể. Các quyển Từ
điển từ và ngữ Hán – Việt và Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam vốn đã chứa vô số sai lầm nghiêm trọng, nay lại được
sao chép trọn vẹn vào cuốn Từ điển từ và
ngữ Việt
Nam, làm cho nó dày thêm mà không tốn
thêm công sức, chẳng khác gì một món hàng xấu
được bàn lại dưới cái vỏ bọc mới mà
thôi.
Riêng số sai lầm trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt đã rất khủng
khiếp rồi, nhưng không phải chỉ có thế. Ngoài những sai lầm từ cuốn này chuyển sang và còn tăng thêm, Từ điển từ và ngữ Việt Nam còn chứa vô số
sai lầm khác ở lời giải thích những từ ngữ được coi là “thuần Việt”. Trong bài Đọc lướt “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” của Nguyễn
Lân, chỉ trong 3 vần chữ cái A, B, C, tàc giả Huệ Thiên đã vạch ra 117 chỗ
sai lầm. Chỉ mới “đọc lướt” thôi nên còn
bỏ sót không ít sai lầm nghiêm trọng khác. Ví dụ, ở các từ ác ôn (ông Nguyễn Lân cho rằng, ôn nghĩa là bệnh dịch) hay từ anh hung (cho rằng, hùng là loài thú khỏe!)
đều
giảng sai nhưng chưa bị phát hiện. Nói như thế để thấy rằng, trong các vần chữ
cái A, Ă, Â, B, C (từ trang 15 đến trang
472), quyển từ điển này còn phạm nhiều sai lầm hơn nữa chứ không phải là con số
117 sai lầm. Gần đây, Hoàng Tuấn Công đã công bố hàng loạt bài dài (như: Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn
Lân, mục chữ cái nào cũng có sai sót; Những sai lầm mang tính hệ thống trong “Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân; Thử lý giải những sai
sót để đời của Nhà biên soạn từ điển – GS Nguyễn Lân, và v.v.), vạch rõ vô số sai lầm thuộc đủ mọi loại: sai lầm về
định nghĩa, sai lầm về chú giải từ tố, sai lầm ở ví dụ, nhầm lẫn về chính tả,
v.v.
Với cách biên soạn
từ điển cẩu thả liều lĩnh như thế thì phải
nói rằng, việc biên soạn Từ điển từ và ngữ Việt Nam là quá dễ dàng chứ chẳng khó khăn gì, cũng
không đòi hỏi phài lao tâm khổ tứ gì cả, chỉ
như một thứ trò vui đùa, rất thích hợp với “tạng” người không chịu khó
tra cứu nhưng rất đắc chí và “tự tin” như
nhà giáo Nguyễn Lân. Hơn nữa, nếu một sản
phẩm như thế mà xuất bản được thì sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Tiếc rằng, đó
là một việc không nên làm vì rất có hại cho tiếng Việt. rất có hại đối với nhiều
thé hệ người Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét