III.
Những
sự thực đáng ngạc nhiên về nhà giáo Nguyễn
Lân
1.
“Chú giải từ tố
“ và “giải thich từ nguyên”, thực chất là đoán mò và viết liều.
Nhà giáo Nguyễn Lân được nhiều người
coi là đã có cống hiến to lớn trong việc “suốt đời bảo vệ sự trong
sáng của tiếng Việt”. Chính ông cũng tự coi mình là người kiên trì bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt . Trong bài Nhớ
Ba (in ở quyển Vinh quang nghề thầy,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 387 – 392), PGS TS Nguyễn Lân Trung là con
trai út của ông đã viết:
.. Mặc
dù cả tám anh chị em đều theo nghề dạy học của cụ, nhưng cái nghiệp chữ nghĩa
thì không ai lựa chọn. Cho nên năm 1985, khi tôi bảo vệ thành công luận án Tiến
sĩ đệ tam về Ngôn ngữ học tại Đại học Sorbonne – Paris, Ba tôi vui lắm và nói với
cả nhà: “Thế là trong gia đình mình, ít ra có một đứa muốn cùng Ba bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt”
Ông cũng cho biết rằng, chính vì muốn “bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt” một cách tích cực và hiệu quả nhất nên ông đã dành nhiều năm cuối
đời để biên soạn Từ điển từ và ngữ Hán –
Việt (có chú giải từ tố), rồi
đến Từ điển từ và ngữ Việt Nam.
Trong Lời
nói đầu của cuốn Từ điển từ và ngữ
Hán – Việt, soạn giả Nguyễn Lân viết:
“Song hiện nay phần lớn các thầy giáo, cô
giáo, sinh viên, học sinh không biết chữ Hán. Nhiều người khi đọc hoặc giảng một
bài văn không biết nghĩa chính xác của nhiều từ, nên có thể hiểu lầm, giảng
sai. Huống chi hàng ngày ở chung quanh ta, nhiều người lẫn lộn từ nọ với từ kia
như: yếu điểm với nhược điểm, báo cáo với bá cáo, giả thiết với giả thuyết, chân tu với trân tu, bàng bạc với bàn bạc, bàng hoàng với bàn hoàn, bàng quan với bàng quang, vãn cảnh với vãng cảnh.
Có người đọc và viết huyên thiên là huyên thuyên, phong thanh (nghe phong thanh) là phong phanh, xán lạn là sáng lạng...Nhiều người nói và viết câu kết là cấu kết... Gần đây, trên một tờ báo lớn, người ta đã viết vô hình trung là vô hình chung.
Để góp phần nhỏ bé của mình vào sự gìn
giữ tính trong sáng của tiếng Việt và bảo đảm tính chính xác của từ ngữ, chúng
tôi đã soạn quyển “Từ điển từ và ngữ Hán – Việt” này.
Ở đầu cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, trong bài Đôi lời tâm sự thay lời tựa, ông viết:
Gần đây, tôi nhận thấy trên sách báo và cả trên đài tiếng nói Việt Nam, đồng
bào dùng sai nhiều từ, nhất là những từ Hán – Việt. Thí dụ, người ta nói và viết
cấu kết thay cho câu kết, mãi dâm thay cho mại dâm,
mãn tính thay cho mạn tính, yếu điểm thay cho điểm yếu
hay nhược điểm (tuy yếu điểm
lại là điểm quan trọng), vãn cảnh chùa Hương thay cho vãng cảnh chùa Hương, vô hình chung thay cho vô hình trung, huyên thuyên thay cho huyên
thiên, vân vân... Mặt khác, trong các sách báo, lỗi chính tả tràn lan, rất ảnh
hưởng tới sự trong sáng của tiếng Việt.
Băn khoăn trước tình trạng đó, tôi thấy
cần có một cuốn từ điển tương đối đầy đủ và đúng đắn, nhưng những bạn đã cùng
tôi soạn cuốn Từ điển tiếng Việt đầu
tiên đã có một số lớn quy tiên, còn một số thì ở xa hoặc phụ trách những công
tác khác, không thể cùng nhau tập họp lại như trước được nữa. Cho nên, mặc dầu
tuổi đã ngoài cửu tuần, tôi cũng đành đơn thương độc mã soạn quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam này.
Như tên sách, không những từ điển này
chỉ có những từ mà còn có cả những thành ngữ rất phong phú và gợi cảm trong tiếng
nói của dân tộc.
Để tránh sự sai lầm khá phổ biến trong
việc dùng các từ Hán – Việt, tôi đã chú ý giải thích các từ nguyên.
Ý chí “bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt”
của nhà giáo Nguyễn Lân còn được nhà báo
Hàm Châu nhấn mạnh trong lời kể lại cuộc trò chuyện giữa hai ông và về cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, trong bài Nguyễn Lân và “mùa thu vàng “ sáng tạo.
-
Xin
bác cho biết đôi nét về bộ từ điển lớn này
-
Khi
đọc các áng văn, thơ cổ như thơ quốc âm của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều, Chinh phụ
ngâm, Cung oán, Phan Trần, Nhị độ mai, Bích Câu kỳ ngộ...hoặc các bản dịch thơ Đường của Phan Huy Vịnh, Tản Đà..., gặp một
số từ cổ, các bạn trẻ tuối ngày nay nếu muốn tra cứu để hiểu nghĩa được tường tận,
thì giở từ điển ra thường không tìm thấy!
-
Bác
có thể cho một ví dụ
-
Chẳng
hạn, đứa cháu gái tôi nghe bà Quách Thị Hồ hát ca trù bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị qua bản dịch tuyệt vời của Phan Huy Vịnh:
Bến Tầm Dương, canh khuya vắng ngắt
Quạnh hơi thu, hiu hắt đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty...
Cháu
không hiểu “chén quỳnh” là gì, “trúc ty” là gì. Tôi nghĩ, từ điển phải giúp các
cháu hiểu nghĩa các từ đó.
-
Xin
bác cho biết vài đặc điểm của bộ Từ điển mà bác đang biên soạn.
-
Ngoài
phần định nghĩa, còn có phần từ loại, từ
nguyên. Chẳng hạn, đọc Cung oán găp hai câu thơ:
Mùi tục lụy lưỡi tê tân
khổ
Đường thế đồ gót rỗ kỳ
khu
Nhiều
bạn trẻ ngày nay rất có thể chỉ hiểu lõm bõm những từ Hán -Việt như “tục lụy,
tân khổ, thế đồ, kỳ khu...”. Cuốn từ điển của tôi sẽ giải thích kỹ càng từ
nguyên của mấy từ đó. Thí dụ, từ ‘kỳ khu” gồm hai chữ Hán là ‘kỳ” và ‘khu”, vậy,
“kỳ” nghĩa là gì và ‘khu’ nghĩa là gì, rồi
“kỳ khu” nghĩa là gì.
Và để giúp bạn đọc hiểu màu sắc, âm hưởng, khả
năng biểu cảm của từ, ở mỗi mục từ, tôi còn đưa vào những câu ca dao, tục ngữ
có liên quan đến từ đó, cũng như những cách dùng từ rất sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng cổ, kim, chứ không
tự nghĩ ra các thí dụ vụng về.
(Trích: Kỷ yếu Hội thào
NGND GS Nguyễn Lân – cuộc đời và sự nghiệp, trang 127 -128. Bài này đã được in trong sách Trí thức tinh hoa
đương đại Việt Nam, Nxb Trẻ, TP HCM, 2014),
Những chứng cứ
vừa nêu cho thấy rằng, nhà giáo Nguyễn Lân tỏ ra luôn luôn day dứt trước hiện tượng viết sai, hiểu sai, giải
thích sai các từ ngữ tiếng Việt, nhất là các từ ngữ gốc Hán. Ông coi việc sử dụng
tiếng Việt không đúng là một điều nguy hại, phải kiên quyết khắc phục. Điều đó đã thôi thúc ông biên soạn hai
cuốn từ điển kia, cũng là hai tác phẩm lớn nhất của ông. Đương nhiên, ông hoàn toàn tin ở năng lực của mình và quyết
tâm đem hết sức lực để bảo vệ tính trong sáng của tiếng Viêt, như chính ông đã
khẳng định
Khi đọc những lời giảng giải của ông
trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam (được
sao chép ở Từ điển từ và ngữ Hán – Việt), mọi người đều kinh ngạc vì thấy quá
nhiều sai lầm vượt sức tưởng tượng. Ngay cả trong một số từ mà ông nêu ra làm
ví dụ về những sai lầm trong sách bào để phê phán, cũng có không ít từ mà ông vẫn
hiểu sai và giảng sai, khi thì sai
nghĩa, khi thì chú giải sai các từ tố. Sau đây là một số ví du để minh
chứng về những sai lầm đáng kinh ngạc của ông.
Chúng tôi thấy cần phải kèm theo chữ Hán ở các từ ngữ đang được
thảo luận.
Từ bàng hoàng 徬
徨 được
ông Nguyễn Lân giảng giải: bàng = ở bên; bất định; hoàng = nghi hoặc; bàng hoàng = choáng váng, không ổn định tâm thần. Bàng hoàng dở tỉnh dở say (Truyện Kiều)..
Các quyển từ điển chữ Hán của Trung Quốc
không giải thích như vậy
Khi giải thíc từ bàng hoàng 徬 徨, Cổ
kim Hán ngữ từ điển (Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2000) và các từ điển
khác của Trung quốc đều không nêu nghĩa của từng từ tồ bàng 彷 hoặc hoàng
徨 và cho biết rằng,
trước đây cũng viết là 旁皇,
仿偟, 方皇, mà người Bắc
Kinh đọc các từ này là páng huáng (tương
ứng với âm Hán – Việt là bàng hoàng).
Chỉ có các từ 彷徨, 旁皇,
徬 徨 thì người Việt Nam mới đọc là bàng hoàng, còn các từ 仿偟,
方皇 thì người Bắc Kinh vẫn
đọc là páng huáng nhưng âm Hán –
Việt của chúng lại là phảng hoàng và phương hoàng. Điều đó xác nhận rằng, nghĩa của từ bàng hoàng là do âm hưởng của cả hai âm tố sinh ra chứ không phải
do nghĩa của hai từ tố hợp lại. Bởi vậy, khi giảng giải về từ bàng hoàng thì không được phép “mổ
xẻ” hai từ tố bàng và hoàng như nhà biên soạn từ điển Nguyễn
Lân đã làm. Theo từ điển này, từ bàng hoàng 徬 徨
có
hai nghĩa: ① do dự, không nhất quyết; ②
tâm thần bất định, đứng ngồi không yên.
Tuy định nghĩa của soạn giả Nguyễn Lân ứng với nghĩa thứ hai và phù hợp với
cách dùng ở Việt Nam hiện nay, nhưng ông đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong việc “chú giải từ tố”
Ở từ bàn hoàn 盘 桓, nghĩa
là lo nghĩ quanh quẩn không dứt ra được
(gần giống với bồi hồi) hoặc quấn quít không rời nhau, thì đúng là có sự tổ hợp
ngữ nghĩa của hai từ tố. Bàn 盘 = quanh quẩn; hoàn 桓 = cây
nêu, cây cột biểu trưng.
Hoa biểu
(hoàn biểu) ở Thiên An Môn
|
Theo Cổ kim Hán ngữ từ điển thì hoàn 桓 là cây cột mà thời xưa người ta dựng
lên trước các dịch trạm (trạm chuyển đạt công văn), các công sở, đền đài,
cung điện, lăng mộ, v.v. để quy định vị trí đứng đợi, còn gọi là hoàn
biểu, về sau được gọi là hoa biểu 華表, ví dụ, Hoa biểu ở Thiên An Môn (xem hình bên).
Vậy, từ bàn hoàn có nghĩa đen là luẩn quẩn xung quanh một cột mốc cố định
để ngóng chờ, nghĩa bóng là đeo đẳng không rời một ý nghĩ nào đó. Tuy giảng
đúng nghĩa của từ bàn hoàn: ① Quanh quần
không dứt ra được. Nỗi riên riêng những
bàn hoàn (Truyện Kiều). ② Quấn quít với
nhau. Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn (Truyện
Kiều), nhưng, khi “chú giải từ tố” (điều
mà soạn giả coi là phần đặc sắc nhất trong từ điển của mình), ông giải thích
rằng, hoàn = uốn éo
thì hoàn toàn sai, Đó chỉ là sự đoán mò, nói liều.
|
Từ
bàng
bạc cũng không thể “mổ xẻ” được. Theo Cổ kim Hán ngữ từ điển, từ này có thể viết là 旁 薄 hoặc 磅 礴,. Tức
là, nghĩa của nó cũng do âm hưởng
của hai âm tố bàng và bạc tạo nên chứ không phải do sự tổ hợp
các nghĩa của hai từ tố này. Bởi vậy,
không được phép “mổ xẻ” tách rời chúng để cắt nghĩa từng từ tố rồi “tổng hơp” lại,
vì ở đây không có sự phối hợp nghĩa của hai từ tố. Ngoài ra, lời giảng của ông
Nguyễn Lân (cho rằng, bàng = rộng lớn;
bạc = đầy bốn mặt) là một sự bịa
đặt liều lĩnh. Chữ bàng 旁 có
nghĩa là bên canh chứ không có nghĩa là rộng lớn; chữ bạc 薄 có nghĩa là mỏng, nhạt, sơ sài... chứ
không có nghĩa là đầy bốn mặt . Các từ tố bàng 磅 hay bạc 礴 đều chẳng có nghĩa gì cả. Chúng được tạo
ra chỉ để viết từ bàng bạc 磅 礴 mà
thôi.
Các từ bồi hồi 徘徊, phảng phất 彷佛
cũng thuộc loại như bàng hoàng hay bàng bạc. Chúng
đều bị nhà biên soạn từ điển Nguyễn Lân “mổ xẻ” một cách phi pháp rồi bịa đặt
nghĩa cho từng từ tồ.
Hộc tốc
觳觫 cũng
là một từ gồm hai âm tố không thể tách rời. Chữ hộc 觳 tuy
có nghĩa là cái hộc, một dụng cụ để đong (1 hộc = 10 đấu; 1 đấu xấp xỉ bằng 2 lít), chữ tốc 觫 tuy có
nghĩa là cái sừng non mới nhú, nhưng nghĩa của từ hộc tốc 觳觫 là
do cả hai âm tố tạo nên chứ không phải là sự phối hợp nghĩa của hai từ tố. Vậy mà trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, soạn giả đã liều lĩnh mà giảng rằng,
hộc = sợ hãi; tốc = sợ, còn trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì lại giảng
rằng, tốc = nhanh. Điều đó chứng tỏ rằng, ông Nguyễn Lân chỉ đoán mò nên nay
đoán thế này, mai đoán thế kia, không tra cứu gì cả. Cổ kim Hán ngữ từ điển và Từ
nguyên đều giảng rằng, hộc tốc
觳觫 nghĩa là run rẩy vì sợ
hãi. Sang tiếng Việt, từ hộc tốc có nghĩa tương tự như tức tốc, nghĩa là rất vội vã.
Việc
giảng sai nghĩa của các từ tố đã xẩy ra thường xuyên, liên tục suốt cả cuốn Từ điển từ và ngữ Hán-Việt và chuyển trọn
vẹn sang Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Sau
đây là một ví dụ về sai lầm của nhà biên
soạn từ điển Nguyễn Lân.trong việc chú giải từ tố và giải thích từ nguyên.
Từ
ác
ôn trong tiếng Việt vốn là ác
côn 惡
棍
(do bị biến âm chút ít mà thành ra ác ôn), trong đó, từ tố côn 棍 có nghĩa gốc là cái gậy, nghĩa bóng là kẻ lêu lổng hay gây sự (như trong các từ côn đồ, du côn). Giảng rằng, ác
ôn = kẻ hung dữ gây nhiều tội ác với
nhân dân thì đúng rồi, chỉ có điều là không cần có mấy chữ với nhân dân (Có lẽ là để chứng tỏ
lập trường tư tưởng rất vững vàng của soạn giả). Nhưng, vì không biết rằng, ác ôn
vốn là ác côn nên khi “chú giải từ tố” thì soạn giả Nguyễn
Lân đã đoán mò, cho rằng, ôn là bệnh
dịch.
Ở từ anh hùng, nhà giáo Nguyễn
Lân đã giảng đúng nghĩa của từ tố thứ nhất (anh
= người tài năng xuất chúng), còn từ tố thứ hai là hùng thì ông giảng là loài
thú khỏe nhất! Trong Hán ngữ có chữ hùng 熊 nghĩa là con gấu, nhưng chữ hùng 雄 trong
từ anh hùng 英 雄
thì khác hẳn, có nghĩa là người tài giỏi, dũng cảm, mạnh mẽ. Chữ hùng 雄 cũng có nghĩa là quốc gia cường thịnh, ví dụ như cụm từ “Chiến quốc thất hùng” dùng để chỉ bảy nước mạnh nhất ở thời Chiến quốc.
Về
từ côn quang, trong Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, soạn giả
giải thích: côn = đồ vô lại; quang = cây
gỗ; côn quang = kẻ vô lại hung dữ.. Nhưng, trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì ông lại giải
thích ràng, quang nghĩa là hung dữ.
Cách giải thích tùy tiện mỗi nơi một
khác như vậy chứng tỏ soạn giả chỉ biết đoán mò, nói bậy và hết sức thiếu trách
nhiệm. Ông không biết chữ Hán, không tra cứu được từ điển chữ Hán thì đã đành,
mà ông còn không hiểu gì về cách cấu tạo của một từ phức hợp trong Hán ngữ. Theo
ông thì quang = hung dữ, là một
tính từ .Nó là từ tố đứng sau nên nó cũng là từ tố chính trong từ côn quang, vậy thì côn quang cũng phải
là một tính từ chứ. Nhưng, theo định
nghĩa của ông, côn quang = kẻ vô lại hung dữ , lại là một danh
từ. Đành rằng, trong tiếng Việt, người ta vãn sử dụng từ côn quang, với nghĩa
là kẻ lang thang lêu lổng bất lương, là tên lưu manh (như ở câu “Khuyển Ưng lại lựa một bầy côn quang”
trong Truyện Kiều), nhưng muốn giải thích từ nguyên thì phải tra cứu ở các.từ
điển Hán ngữ cỡ khá lớn. Trong Hán ngữ không có từ côn quang , mà chỉ có từ quang
côn 光
棍. Ở từ ác ôn (nguyên là ác côn 惡 棍) vừa được nói đến trên đây, độc giả đã
biết rằng, từ tố côn 棍 có
nghĩa gốc là cây gậy và nghĩa mở rộng là kẻ lang thang lêu lổng. Từ tố quang 光, ngoài nghĩa thông thường nhất là ánh sáng (danh từ) hoặc sáng (tính từ), còn có rất nhiều nghĩa
khác. Cổ kim Hán ngữ từ điển của Thương vụ ấn thư quán nêu ra 15 nghĩa của
chữ quang 光,
trong đó có nghĩa thứ 8 là trần trụi, trơ
trọi, và đó chính là nghĩa của từ tố quang
trong từ quang côn 光 棍,
ban đầu dùng để chỉ người đàn ông không vợ không con, không nhà cửa, và về sau có nghĩa
là kẻ vô lại, kẻ lưu manh.
Theo từ điển Từ nguyên, từ Dạ hợp 夜合 (đồng
nghĩa với từ hợp hoan 合歡; dạ = ban đêm; hợp = khép, khít) có
hai nghĩa: u Cuộc vui ống rượu (liên hoan) ban đêm;
v Tên một loài hoa, cây thân gỗ, là dài, màu
xanh nhạt, ban ngày nở, ban đêm khép lại, do đó mà có tên ấy (Nguyên văn
trong Từ nguyên: "mộc bản, diệp trường, hoa
thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp, cố danh"). Buồn thay, soạn giả Nguyễn lân vốn
quen đoán mò nói liều nên đã phán rằng: dạ
= đêm; hợp = thích hợp; dạ hợp =
loài cây cùng họ với ngọc lan, hoa trằng thơm, nở về ban đêm.! Nếu thề
thì phải gọi là dạ khai chứ! Ngay
trong từ thích hợp, từ tố hợp cũng có nghĩa khít. Thích nghĩa là vừa
đúng, rồi mở rộng ra là vừa lòng, vừa ý; thích hợp nghĩa là vừa khít (cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng).
Ở
từ đại
sứ 大使
, từ tố đại 大 nghĩa là lớn thì ông đoán mò rồi nói
liều rằng, đại
là thay thế (代).
Theo ông thì đại sứ là “viên chức ngoại
giao đại diện cho một nước bên cạnh chính phủ của một nước khác” cho nên từ tố
“đại” có nghĩa là thay thé, là đại diện. Ông không biết rằng, từ tố “sứ’ đã nói
lên tư cách “đại diện” cho một nước rồi.
Đáng lẽ nên viết rằng, “đại sứ là người đại diện ngoại giao ở cấp cao nhất
của một nước ở nước ngoài, thay mặt nguyên thủ quốc gia trong việc giao thiệp với nước sở
tại”. Chữ đại 大 chính là để thể hiện cái cưong vị ở cấp cao
nhất .
Tiếp đến từ đại sứ quán (trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam), soạn giả
Nguyễn Lân cũng rất liều khi giảng rằng, quán
nghĩa là cơ quan. Đành rằng, trong
trường hợp cụ thể này thì viết như vậy cũng không làm sai nghĩa của từ đại sứ quán 大 使 館,
nhưng khi đã có chủ ý “chú giải từ tố” thì phải nêu thật sát nghĩa của từng từ tố rồi mới nói đến nghĩa hẹp, nghĩa bóng, nghĩa
mở rộng, v.v. Chữ quán 館 có nghĩa gốc là nhà hàng ăn uống, vì
nó được cấu tạo từ chữ thực 食
(nghĩa là ăn, để gợi ý) và chữ quan 官 (để
gợi âm). Về sau, nghĩa của nó được mở rộng thêm, kiêm cả nghĩa là nơi tiếp đãi khách khứa, là trú sở (người
ta quen gọi là trụ sở), tức là nơi làm việc của một cơ quan (như trong
các từ Quốc sử quán, Đại sứ quán, v,.v.). Trước sau, quán vẫn là một vật thể kiến
trúc, còn cơ quan là đơn vị trong bộ
máy nhà nước hoặc đoàn thể.
Nhà
biên soạn từ điển Nguyễn Lân đã nhiều lần lên tiếng dạy bảo rằng, nói và viết yếu điểm thay cho điểm yếu hay nhược điểm là
sai, bởi ví yếu điểm nghĩa là điểm quan trọng. Ở mục từ yếu điểm trong cả hai cuốn từ điển của
ông đều có câu: Chớ lầm yếu điểm với điểm
yếu. Đúng vậy, bởi vì yếu điểm là một từ Hán – Việt, từ tố yếu (đứng trước) bổ nghĩa cho từ tố điểm (đứng sau), mà trong Hán ngữ thì
chữ yếu 要 có
nghĩa là quan trọng, cho nên yếu điểm
có nghĩa là điểm quan trọng, và nhược điểm mới có nghĩa là điểm yếu. Với cách cấu tạo từ tương tự như vậy, chứng nhân nghĩa là người
làm chứng, và không đươc lẫn lộn với nhân
chứng (nghĩa là chứng cứ mà con người biết được). Buồn thay, nhà biên soạn
từ điển Nguyễn Lân không phân biệt được hai từ này. Ông đã đưa ra các định
nghĩa kèm theo ví dụ (bằng dòng chữ in nghiêng): chứng nhân = Người làm chứng. Ai là chứng nhân của vụ giết người ấy? và nhân chứng = Người làm chứng trong một vụ tranh chấp. Tòa án đã mời các nhân chứng phat biểu. Sự thực thì tòa án không thể mời các
nhân chứng phát biểu (vì nhân chứng là loại chứng cứ bằng lời chứ không phải là con người). mà chỉ có thể đưa ra các chứng
cứ để luận tội. Có hai loại chứng cứ: u Trước hết là loại chứng cứ do những người chứng kiến và xác
mính sự việc (tức là các chứng nhân)
thuật lại, gọi là nhân chứng. v Loại chứng cứ thứ hai là những hiện vật liên quan đến sự việc, gọi là vật chứng, có thể là những đồ vật liên
quan với những người dính líu đến sự việc (như hung khí, quần áo, đồ dùng...)
hoặc mang dấu vết của sự việc (như dấu vân tay,
các vết chém hay vết cháy trên
các đồ vật, ...), hay là những hình ảnh hoặc âm thanh được ghi lại khi
sự việc xẩy ra, hay là kết quả xét nghiệm AND, v.v. Khi có
sự chối cãi của bị cáo thì Tòa án mời các chứng
nhân ra để trình bày lại các chứng cứ một cách cụ thể hơn. Theo Tân hiện đại Hán ngữ từ điển (Kiêm tác Hán – Anh từ điển) của Trung Quốc
do Vương Đồng Ức chủ biên thì chứng nhân (証人) =
witness = 证明案件事实的人 = người chứng minh sự thực trong vụ án; và nhân
chứng (人証)
=.testimony of a witness = 诉讼时以人的陈述为证据 (区別于物证) = việc lấy lời kể của con người để
làm chứng cứ trong vụ kiện cáo (phân biệt
với vật chứng).
Trong
những từ chỉ người mà có hai từ tố, trong đó có từ tố nhân 人 thì từ tố nhân
人
luôn luôn đứng sau. Nguyên tắc cấu tạo từ trong Hán ngữ đòi hỏi như vậy. Ví dụ:
văn nhân (= nhà văn), thi nhân (= nhà thơ),
mỹ nhân (= người đẹp), yếu nhân (= nhân vật quan trọng), tội nhân (= người
có tội), phạm nhân (người phạm pháp), tù nhân (= người tù), dị nhân (= người khác thường), v.v. Lẽ nào nhân
chứng cũng là chứng nhân, như lời giảng của
nhà giáo Nguyễn Lân?
Theo nguyên tắc đó thì phải phân biệt
giữa tình nhân (= người tình, người
yêu) và nhân tình (= tình người, tức là tình cảm của con người, là mối quan
hệ tốt đẹp giữa mọi người với nhau, là thiện ý củn con). Vậy mà Từ điển từ và
ngữ Việt Nam đã giải thích như sau:
nhân
tình dt (H. nhân: người; tình:
tình cảm) 1. Người yêu; 2.
Tình cảnh của con người.
Cũng theo từ điển của Nguyễn Lân thì tình
cảnh = tình hình và cảnh ngộ thường có khó khăn Cả hai
nghĩa này đều sai, và định nghĩa như vậy về từ
tình cảnh cũng sai.
Đành rằng, hiện nay rất nhiều người và cả
trên sách báo, đài phát thanh, đài truyền hình... thường nói sai, viết sai và
hiểu sai các từ nhân chứng và nhân tình, cho rằng nhân chứng
nghĩa là người làm chứng và nhân tình
nghĩa là người yêu. Nhưng đó là sự hiểu sai, viết sai, nói sai, cùng một dạng
sai giống như ở trường hợp hiểu, nói và viết yếu điểm thay cho điểm yếu mà nhà giáo Nguyễn Lân đã cực
lực phê phán, vậy mà ông vẫn mắc phải.
Theo lời nhà báo Hàm Châu, nhà giáo Nguyễn
Lân biên soạn Từ điển từ và ngữ Việt nam
để giúp các bạn trẻ hiểu những từ ngữ cổ và khó “khi đọc các áng văn, thơ cổ như thơ quốc âm của Nguyễn Trãi,
Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán, Phan Trần,...”.
Tưởng chừng đây là ý tưởng lành mạnh,
tích cực của một soạn giả rất thông thái. Nhưng sự thực hoàn toàn không phải
như vậy. Ví dụ, ở từ cửa viên, ông đã giải thích, nguyên
văn như sau ;
cửa
viên: dt (Dịch từ chữ Hán: Viên môn) Nơi đóng quân của
một vị tướng (cũ) : Điểm danh trước đã chực ngoài cửa viên
(K).
Ghi
chú: dt = danh từ; (K) = Truyện Kiều. Danh từ cửa viên
còn xuất hiện trong Truyện Kiều ở câu
2380 (Cửa viên lại dắt một dây dẫn
vào) và câu 2512 (Đại quan lễ phục ra
đầu cửa viên)
Ở
từ viên môn (không có trong Từ điển từ và ngữ Hán – Viêt, chỉ có
trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam) soạn giả giải thích; viên = người giữ chức vụ; môn = cửa; viên môn = dinh một ông tướng. Rồi ông đưa ra một câu ví dụ:
Lệnh truyền đi từ viên môn vị tướng.
Không đúng. Theo từ điển Từ nguyên,
Chữ viên 轅 ở đây (có tự dạng và
nghĩa khác chữ viên 員 để
chỉ người) nghĩa là bộ càng xe gồm hai thanh gỗ dài gắn ở phía trước chiếc xe lớn
để cho ngựa kéo. Thời xưa, ở Trung quốc, các bậc đế vương đi xem xét ở các địa
phương, khi nghỉ lại thì xếp xe xung qunh làm hàng rào, chừa một lối để ra vào,
hai bên cho xe chổng càng lên để làm cổng, cổng ấy gọi là Viên
môn 轅 門.Về
sau, cổng dinh của các quan lớn hoặc của các ông tướng cũng được gọi là viên
môn. Từ “cửa viên” ở các câu thơ của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều nghĩa
là cái cổng ở dinh của
ông tướng tại nơi đóng quân.
Từ viễn
phố (trong câu thơ của Bà huyện Thanh quan: Gác mái, ngư ông về viễn phố) đã được nhà biên soạn từ điển
Nguyễn Lân đã giảng giải rằng, viễn
là xa; phố là chỗ bán hàng và viễn phố = chỗ bán hàng ở
xa. Đến đây thì không thể nào tưởng tượng nổi sự thông thái của “Giáo sư”
Nguyễn Lân nữa rồi. Bà Huyện Thanh Quan sử dụng chữ phố
浦
nghĩa là cửa sông hoặc bến sông chứ không phải phố 鋪 là
cửa hàng. Viễn phố 遠 浦
nghĩa là bến sông ở xa. Nếu Bà sống lại thì cả ông Nguyễn Lân và cả Nhà xuất bản đã ấn
hành từ điển của ông đều khó mà tránh khỏi sự trách mắng.
Không những Bà Huyện Thanh Quan mà cả
“bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương cũng không thể tha thứ cho nhà biên soạn từ điển
Nguyễn Lân về tội xuyên tạc thơ của bà do viết sai chính tả. Trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam, ở mục từ chiêu mộ. ông giải thích: chiêu mộ dt
(H. chiêu: sơm; mộ: tối) = Sáng và tối.
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
(HXHương). Nữ sĩ Hồ Xuân Hương chỉ có
thể nói: Ba hồi triêu mộ
chuông gầm sóng, bởi vì trong Hán ngữ, phải là chữ triêu
朝
mới có nghĩa là sáng sớm.
Nhà giáo Nguyễn Lân luôn luôn tự nhận
mình là kẻ suốt đời “bảo vệ sự trong
sáng của tiếng Viêt”, nhưng chính ông là
người xuyên tạc, phá hoại tiếng Việt một
cách thường xuyên, trắng trợn và thô bạo
nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét