2.
Sự trái ngược giữa
lời dạy và việc làm của nhà giáo Nguyễn
Lân
Tại trang 64 – 65 trong quyển Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960), nhà giáo
Nguyễn Lân đã viết:
Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa chỉ học
tập chủ nghĩa Mác-Lênin không, không đủ! Công việc chính của người thầy giáo là
giảng dạy, là vũ trang cho học sinh những
tri thức khoa học tiên tiến nhất, để hình thành ở họ thế giới quan khoa học, để,
trên cơ sở những tri thức đó, xây dựng cho họ những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết
cho đời sống. Vậy, dạy môn nào, người thầy
giáo xã hội chủ nghĩa phải nắm vững bộ môn ấy. Nếu dạy một không thể biết mười thì ít nhất người thầy giáo cũng phải
biết hai, ba chứ dạy bài nào mà chỉ biết bài ấy thì thực là nguy hiểm, vì không
những chẳng giải đáp được thắc mắc của học sinh mà lại còn dế dàng nói sai sự
thật và phản lại khoa học. Ta nên nhớ rằng mỗi lời thầy giáo nói ra là bốn, năm
chục học sinh chú ý nghe; thầy dạy một điều sai là bốn năm chục bộ óc bị đầu độc;
như thế thì không những đã chẳng dạy được gì thêm, lại còn khiến học sinh có những khái niệm không đúng cần phải gột rửa
đi nữa.
Ngoài
bộ môn mình phụ trách, người thầy giáo xã hội chủ nghĩa còn phải nắm được các bộ
môn khác nữa: tối thiểu, trình độ văn hóa phổ thông của người thầy giáo, về mọi
ngành tri thức, phải không được thấp hơn trình độ học sinh ở cấp mình giảng dạy.
Thí dụ, một giáo viên về Việt văn ở lớp tám ít ra cũng phải nắm được
những bộ môn khoa học tự nhiên của cấp III; có như thế thì khi giảng dạy Việt
văn mới có thể đưa ra những dẫn chứng cụ thể.
Hơn nữa, người thầy giáo xã hội chủ nghĩa
lại còn phải tìm hiểu những phát minh mới nhất của nhân loại, còn phải tìm đọc
những tác phẩm hay nhất mới xuất bản. Thí dụ; một giáo sư về sử học không thể ỷ
vào môn học của mình dạy mà chẳng biết gì đến năng lượng nguyên tử, đến vệ tinh
nhân tạo, đến tên lửa vũ trụ; một giáo
sư về toán học không thể chẳng biết gì đến quyển tiểu thuyết hay nhất trong nước
hay là ở các nước bạn.
Cho nên vai trò của người thầy giáo trong
nhà trường và trong xã hội đòi hỏi một vốn tri thức càng ngày càng phong phú
hơn, càng ngày càng mới hơn.
Thật
là những lời vàng ngọc. Nếu mọi thầy giáo đặt cho mình nhiệm vụ luôn luôn học hỏi
để nâng cao kiến thức nhằm phục vụ đắc lực cho việc giảng dạy như lời của nhà
giáo Nguyễn Lân thì chất lượng giáo dục trong nhà trường hẳn là không thể chê
vào đâu được. Có lẽ ngoài nhà giáo Nguyễn
Lân thì chẳng thầy giáo nào nghĩ được , viết được và dám viết những lời như thế.
Nhưng, mọi người phải thất vọng biết bao
khi đọc những định nghĩa hay những lời chú giải ở nhiều từ ngữ thuộc các bộ môn toán học, vật
lý học, hóa học, sinh vật học, lịch sử ... trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của ông. Xin
nêu một số chứng cứ trên “giấy trắng mực đen”. Ở mỗi từ, câu định nghĩa của nhà
giáo Nguyễn Lân sẽ được gạch dưới, và câu ví dụ của ông sẽ được ghi bằng chữ
nghiêng. Tiếp đó là nhận xét của người viết bài này.
● Ấu
trùng = u
Động vật nhỏ ở thời kỳ mới sinh Ấu trùng của chuồn chuồn; v tt
Mới đẻ. Rằng con đương độ ấu
trùng, xa xôi non nước lạ lùng biết sao. (Trê cóc). Không phải động vật nhỏ
nào cũng sinh ra ấu trùng. Định nghĩa như vậy thì quá mù mờ và dẫn đến sự hiểu
sai. Ít nhất cũng phải nêu được mấy ý
như sau: Ấu trùng là dạng tự
do mới ra khỏi trứng của một số động vật cấp thấp như côn trùng, ếch nhái, và phải
trải qua thời kỳ biến thái mới đạt đến dạng trưởng thành. Ấu trùng bao giờ cũng chỉ là danh từ, không
phải là tính từ với nghĩa là mới đẻ . Cái trứng cóc đã nở ra ấu trùng cóc đầy thôi.
● Ðịa Trung Hải = Biển ở giữa lục
địa. Biển
Ca-xpiên là một địa trung hải. Đành rằng, Địa Trung Hải nghĩa là biển ở
trong lục địa., nhưng nhóm từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển có
diện tích 25 triệu kilomet vuông, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi,
phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển
Ðỏ qua kênh đào Suez Soạn giả đã đã
không nói đến Ðịa Trung Hải với tư cách một địa danh rất quan trọng trên bản đồ
thế giới, mà đã biến danh từ riêng này thành một danh từ chung, với nghĩa là
cái hồ lớn!
● Đô hộ = Thống trị và áp bức
bóc lột. Trong gần một trăm năm, nước
ta ở dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Không đúng. Trong từ này, theo từ điển
Từ hải, đô 都 nghĩa là toàn bộ; hộ 護 nghĩa là bảo vệ, là trông nom. Theo từ
điển Từ hải, đô hộ nghĩa là tổng
giám, tức là giám sát toàn bộ chứ không hề có nghĩa là áp bức bóc lột. Đó là tên một chức quan. Hán Tuyên Đế (ở ngôi
từ 74 đến năm 49 TCN) thiết lập chức Tây vực Đô hộ, là chức trưởng quan cao nhất
ở vùng Tây vực. Nhà Đường đặt các chức An Đông đô hộ, An Tây đô hộ, An Bắc đô hộ,
và An Nam đô hộ, là viên quan cao nhất thống
trị nước ta. Do đó, trong tiếng Việt, từ đô hộ được hiểu là thống
trị. Nhưng, là người biên soạn từ điển từng nhấn mạnh việc « chú giải
từ tố » và « giải thích từ nguyên » thì không thể giải thích tùy
tiện.
● Đồng điếu dt = Đồng nguyên chất màu đỏ. Tiếc thay hạt gạo tám xoan, thổi nồi đồng điếu
lại chan nước cà (cd). Không đúng. Đồng điếu là một hợp kim tự nhiên
của đồng, mà thành phần phối hợp quan trọng
nhất là thiếc, và có thể có nhiều nguyên
tố khác nhưng không có kẽm. Gọi là hợp
kim tự nhiên là vì thành phần của nó được
quyết định bởi kinh nghiệm pha trộn loại
quặng chứa đồng và loại quặng chứa thiếc,
còn các thành phần khác thì người ta
không thể biết và không
thể điều chỉnh được. Đây là một
trong hai dạng hợp kim của đồng được sử
dụng rộng rãi trong đời sống từ xa xưa đến ngày nay, có đặc điểm là cứng và dễ đúc. Dạng hợp kim kia gọi là đồng thau thì không chứa thiếc mà lại chứa kẽm, có đặc tính là dễ
dát mỏng vì mềm dẻo, thường dùng để
làm chậu, làm mâm nhưng không thể đúc được vì khi nung chảy
thì nios rất quánh, rất khó chảy
vào các ngóc ngách của khuôn đúc. Câu ca
dao mà ông Nguyễn Lân nêu ra cũng cho thấy rằng, đồng điếu là một sản phẩm mà
dân gian đã sử dụng từ lâu, khi mà người ta chưa hề có các khái niệm về hỗn hợp và hóa hợp, về đơn chất,
hợp chất, về các nguyên tố, v.v.. khi mà trình độ luyện kim còn hết sức thô sơ,
làm sao có thể nghĩ đến cái gì nguyên chất hay không nguyên chất. Từ khi biết sử
dụng phương pháp điện phân (cuối thé kỷ 19, ở Pháp), các nhà bác học mới biết cách tinh luyện đồng
tương đối nguyên chất. Ở Việt Nam hiện nay (đầu thế kỷ 21) vẫn chưa có nơi nào
tinh chế được đồng nguyên chất (may ra chỉ có mô huinhf trong phòng thí nghiệm).
Định nghĩa do nhà giáo Nguyễn Lân đưa ra là hoàn toàn sai, nhưng điều đáng buồn
hơn là, nó chứng tỏ rằng, ngưởi đưa ra định nghĩa đó thiếu hẳn sự hiểu biết về lịch sử phát triển của nền văn
minh nhân loại.
● Giám quốc
= Từ cũ chỉ tổng thống một nước cộng
hòa tư sản . Hồi đó Clémenceau mật chức
giám quốc nước Pháp. Định nghĩa này rất sai và chứng tỏ rằng soạn giả vừa
kém tiếng Việt vừa kém hiểu biết về lịch sử. Cứ dựa theo các từ tố (giám =
trông coi ; quốc = nước, quốc gia) thì cũng đủ hiểu rằng, Giám quốc
là người cầm quyền ở một nước quân chủ thay nhà vua (khi vua vắng mặt). Từ điển Từ nguyên của Trung Quốc đã nêu định
nghĩa như thế. Cũng có trường hợp, vua mới lên ngôi còn quá nhỏ thì Hoàng tộc cũng chọn một
người làm giám quốc. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi lên ngôi vua nhà Thanh khi mới
hai tuổi, Hoàng tộc đã cử cha của ông ta là Tải Thuần làm giám quốc. Ở nước ta
cũng đã từng có chức giám quốc. Cuối năm 1787, Vũ Văn Nhậm theo lệnh của Nguyễn
Huệ ra bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận (con vua
Lê Hiển Tông, chú của Lê Chiêu Thống) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy
khỏi kinh thành để cầu viện quân Thanh.
Khi Nguyễn Huệ ra bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm giám
quốc. Trước đây, từng có người gọi tổng thống nước Pháp là giám quốc vì họ chưa
biết từ tổng thống. Trong Từ điển từ và
ngữ Hán – Việt, soạn giả Nguyễn Lân còn viết rằng, Ngày nay người ta dùng từ tổng thống để thay từ giám quốc. Thử
hỏi, có thể gọi Tải Thuần hay Lê Duy Cận là tổng thống hay không ?
● Ngọc tỉ = Ấn của nhà vua. .Bảo Đại đã giao ngọc tỉ cho đại diện của chính phủ cách mạng, khi tuyên bố
thoái vị, Soạn giả Nguyễn Lân chú giải: tỉ = cái ấn. Nếu thế thì ngọc tỉ là cái ấn bằng ngọc, dù là của ai
cũng vậy chứ không phải chỉ của nhà vua. Theo từ điển Từ nguyên thì từ thời Tần – Hán về
sau, chỉ riêng cái ấn của Hoàng đế mới gọi là tỉ 璽, và ngọc tỉ
nghĩa là Hoàng đế chi ngọc ấn, tức là ấn bằng ngọc của hoàng đế.
Đã là từ điển, lại có chú giải từ tố thì phải chính xác, nên phải
giải thích: tỉ là cái ấn của Hoàng đế,
ngọc tỉ là cái ấn bằng ngọc của Hoàng đế. Trong lịch sử Việt Nam chưa thấy ở đâu nói đến
ngọc tỉ. Hoàng đế Bảo Đại chỉ có cái ấn bằng vàng, không hề có ấn ngọc, sao ông
có thể giao ngọc tỉ cho đại diện của chính phủ cách mạng.
● Nhãn áp = Áp suất của máu ở mắt. Sai hết sức nghiêm trọng. Nhãn áp là áp suất trong nhãn cầu, Nên nhớ rằng, nhãn cầu
(ocular bulb, globe oculaire) không chứa máu mà chứa một chất lỏng trong suốt,
cho nên cũng có thể nói: Nhãn áp là áp suất của chất lỏng trong nhãn cầu.
● Nhiệt
hạch dt = nhiệt phát ra từ sự
phá hủy hạt nhân nguyên tử . Nhiệt hạch
là một nguồn năng lượng rất lớn. Sai nghiêm trọng! Nhiệt hạch là một từ được sử dụng ở Trung Quốc và Việt Nam để dịch
từ thermonuclear trong tiếng Anh hoặc
thermonucléaire trong tiếng Pháp, nghĩa là liên quan với quá trình kết hợp hạt
nhân của các nguyên tố nhẹ ở nhiệt độ rất cao . Đó là một tính từ (chứ
không phải là danh từ như ông Nguyễn Lân đã dạy) để tạo thành các từ phức hợp
như năng lượng nhiệt hạch, vũ khí nhiệt hạch, chiến tranh nhiệt hạch, v.v.
● Phức
số = Số tính không theo hệ thập phân. Số giờ tình ra phút là một phức số. Sai hoàn toàn. (Sai như thế
nào, xin mời quý vị xem ở từ Số phức ở dưới đây. Phức số cũng chính là Số phức. Các từ tố phức vá số tuy cố nguồn
gốc từ Hán ngữ nhưng đã Viêt hóa hoàn toàn nên chúng có thể ghép với nhau theo
trật tự của Việt ngữ thì thành ra từ số
phức, nếu theo trật tự của Hán ngữ thì thành ra từ phức số). Số đếm không theo hệ thập phân có thể là số
nhị phân, số tam phân, v.v., cách gọi tên phụ thuộc vào cơ số của hệ đếm, tùy từng
trường hợp. Số đếm giờ, phút và giây được tính theo hệ lục thập
phân.
● Số
phức = Tổng của một số thực và một số ảo. 6 giờ 20 phút 12 giây là một số phức . Câu định nghĩa tuy không sai
nhưng chưa đầy đủ và không chặt chẽ. Phải định nghĩa như sau: Số phức
(hay phức số) là một số có dạng X = A + Bi, trong đó, A và B là những só thực, i gọi là đơn vị ảo; i2
= - 1. Còn câu ví dụ thì sai hoàn toàn và không liên quan gì với câu định
nghĩa. Điều đó chứng tỏ rằng soạn giả chỉ biết nhặt nhạnh sao chép của người
khác mà không hiểu gì cả. Bởi vậy, tuy từ
phức số cũng là một cách gọi khác của
từ số
phức nhưng lại được soạn giả gán cho một định nghĩa và một ví dụ khác hẳn.
● Số
thực = Số dương hoặc số âm biểu
thị bằng một số thập phân vô hạn. Số hữu tỉ hay số vô tỉ đều là số thực. Vậy thì các số nguyên không
phải là số thực hay sao? Định nghĩa như thế không đúng, mà phải nói rằng: Số thực là tên
gọi chung của tất cả các số hữu tỉ và số vô tỉ., phân biệt với số ảo.
Một điều đáng chú ý là, trong Từ
điển t ừ và ngữ Việt Nam, soạn giả Nguyễn Lân nói đến số hữu tỉ, số vô tỉ,
số thực, số phức nhưng không nhắc đến số
ảo. Vì sao? Vì ông không hiểu gì về các loại số trong toán học..
● Số vô tỉ = Số không thể biểu diễn được
dưới dạng một số nguyên hay một phân số. a2 là một số vô tỉ. Định
nghĩa về số vô tỉ như thế thì không sai nhưng
ví dụ thì chẳng liên quan gì với định nghĩa, và sai hoàn toàn, chứng tỏ soạn giả
chỉ biết sao chép mà hoàn toàn không hiểu gì cả. Số vô tỉ
là số mà nếu viết dưới dạng phân số thập
phân thì sẽ là một số vô hạn không tuần hoàn, ví dụ: √2 = 1, 414 213562373095.....; số pi : π = 3,14159 26535 89793 23846..., là những số vô tỷ.
● Thạch anh (thạch:
đá; anh; tốt đẹp) = khoáng chất dạng kết tinh, trông óng ánh. Vách hang lấp lánh như thạch anh. Định
nghĩa như vậy quá mơ hồ, không nêu được những tính chất đặc trưng của thạch anh
để phân biệt với các khoáng vật khác.
Câu ví dụ cũng rất gượng ép. Có thể định nghĩa ngắn gọn như sau: thạch anh = dạng kết tinh phổ biến của
oxid silic SiO2, trong suốt, không màu hoặc có các màu nhạt, rất cứng
và giòn, là thành phần cấu tạo chủ yếu của các loại đá kết tinh (như đá hoa
cương...), của một số đá trầm tích (như sa thạch...) và của đa số các loại cát.
● Thạch tín (thạch: đá; tín: tin)
= Hợp chất của a-xen chứa nhiều chất độc. Thạch tín thường được goi là nhân ngôn. Định nghĩa này không
ổn. Trước hết, đây là một khoáng vật, dạng bột. Nó là một chất độc chứ không phải chứa nhiều chất độc. Nếu chú giải
rằng, thạch nghĩa là đá, tín nghĩa là tin, rồi coi đó là việc giải thích từ
nguyên thì thật là chướng, bởi vì như vây thì hai từ tố đó chẳng nói lên điều
gì cả, thà đừng cắt nghĩa các từ tố còn hơn. Trong Hán ngữ không có từ thạch
tín mà chỉ có từ tín thạch. Tín thạch
信石 là một khoáng vật dạng
bột, màu trằng, không có mùi, có công thức là As2O3, tức
là trioxid arsenic, rất độc, có thể làm chết người. Gọi là tín thạch vì nó được tìm thấy ở Tín Châu, thuộc tỉnh Giang Tây ở
Trung Quốc, được sử dụng trong Đông y để điều trị ung nhọt, viêm loét, chữa các
chứng cam tẩu mã, hen suyễn..., thường gọi
tắt là tín 信. Chữ tín 信
vốn được cấu tạo từ chữ nhân 亻(biền thể của chữ 人 ,
nghĩa là người) và chữ ngôn 言 nghĩa
là lời nói. Nhân ngôn nghĩa là lời
bàn tán của người đời (nhiều khi không đúng sự thật và rất nguy hiểm). Ngạn ngữ
Trung Hoa có câu: Nhân
ngôn khả úy, nghía
là lời bàn tán của người đời rất đáng sợ (không kém gì tín thạch, tuy có tác dụng
chữa bệnh nhưng có thể làm chết người). Vì vậy, người Trung Quốc đã “chơi chữ”,
gọi tín thạch là nhân ngôn. Về từ này, trong Từ
điển từ và ngữ Việt Nam, soạn giả Nguyễn Lân viết: nhân
ngôn = Một thứ thuốc độc màu vàng. Nhân ngôn cũng có tên là thạch tín. Định nghĩa như vậy thì quá mơ hồ.
Nếu soạn giả có kiến thức vững vàng thì phải viết: Nhân ngôn = lời bàn tán (hoặc dư luận) của người đời, tuy
cần tham khảo nhưng nhiều khi khác xa sự thật, phải thận trọng Từ nhân
ngôn còn được dùng để chỉ chất tín thạch (mà ở nước ta quen gọi là thạch tín).
● Vi
điện tử dt (H. vi; nhỏ bé; điện:
điện; tử; hạt) = Hạt điện tử cực nhỏ. Hoàn toàn sai. Không có hạt nào có
tên là vi điện tử. Điện tử, hay electron là một hạt cơ bản mang điện tích âm, có khối lượng m = 9,10938291(40)×10−28 g, mang
điện tích e =
−1.602176565(35)×10−19 C. Mọi điện từ
đều có khối lượng như nhau và điện tích như nhau. Thuật ngữ vi điện tử không phải là một danh từ (như soạn giả đã ngộ
nhận), mà là một tính từ, tương ứng với từ
mocroelectronic trong
tiếng Anh hoặc từ microélectronique trong
tiếng Pháp, thể hiên mối liên quan đến việc chế tạo hay lắp ghép các linh kiện
điện tử rất nhỏ. Ví dụ: mạch
vi điện tử, thiết bị bi vi điện tử.
Những
thí dụ trên đây chứng tỏ rằng, kiến thức
của nhà giáo Nguyễn Lân về mọi lĩnh vực khoa học thường thức chưa đạt đến trình
độ trung học, hoàn toàn trái ngược với
đòi hỏi của ông đối với một giảng viên đại học. .
3.
Biết
khuyên răn dạy dỗ người khác nhưng không biết nhìn lại mình.
Nếu người thầy giáo thuyết giảng cho học
sinh. những điều mà chính mình cũng chưa hiểu thì thật là nguy hại, Phải nói rằng,
người đó không đủ tư cách làm thầy giáo,
không phải là người đứng đắn tử tế mà chỉ
là kẻ hợm hĩnh liều lĩnh vô trách nhiệm, thậm chí, chỉ là một kẻ lừa đảo. Nhà
giáo Nguyễn Lân biết rõ điều đó nên ông luôn luôn căn dặn con cái phải tránh
thói xấu ấy.
Trong bải Bữa cơm trưa ở nhà mình, cô
giáo Trần Thảo Nguyên (giảng viên Học viện
Ngân hàng, là con dâu của ông) đã kể lại lời dạy của nhà giáo Nguyễn Lân đối với
cô : « Con làm cô giáo thì phải nhớ là dù một chữ chưa hiểu cũng
phải đọc, phải hỏi cho thật hiểu mới được dạy cho học trò, óc trẻ con như trang giấy trắng, con vẽ sai lên đó làm sao tẩy
sạch được. Rồi ba giảng giải, muốn tìm hiểu một vấn đề gì thì phải hiểu cả lịch
sử, cả hoàn cảnh cụ thể của nó.. ».
(trong sách Vinh quang nghề thầy, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 382).
Lời khuyên răn của nhà giáo Nguyễn Lân
hoàn toàn đúng đối với tất cả những ai muốn trở thành con người có tri thức và
có đạo đức chứ không phải chỉ riêng đối với người dạy học.
PGS TS Nguyễn Lân Cường kể lại :
Cách đây 9 năm (so với năm 2004 – TG chú),
tôi được bầu làm Chủ tịch
Công đoàn của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia – nơi có hơn 1300
cán bộ công tác thuộc các lĩnh vực khoa
học xã hội. Vừa mừng, vừa phấn khởi vì lần đầu tiên trong đời được đảm nhận một
công tác xã hội khá lớn nên vội về nhà khoe với cụ. Ba tôi nói:
“Cái
khó nhất trong cách đối xử ở đời là biết mình đang ở vị trí nào. Con đừng
quên rằng, một người giỏi lắm thì cũng đi sâu được một hai chuyên môn. Vì vậy,
phải luôn coi người khác là thầy của mình về những chuyên ngành khác.”.
Lời căn dặn ấy của Ba tôi luôn là lời nhắc nhở anh em chúng tôi,
nhưng không phải dễ gì thực hiện được lời cụ dạy.
(Vinh quang nghề thầy,
trang 369, trong bài Xin gắng theo được một
phần của Ba)
Phải
chăng, khi nói những lời trên đây, nhà giáo Nguyễn Lân đã nghĩ đến lời dạy của
Khổng từ đối với Tử Lộ mà có lẽ hồi trước ông đã từng nghe: ‘Biết cái gì thì nhận là biết, không biết
cái gì thì nhận là không biết, như thế là biết vậy”.(”知之為知之,不知為不知,是知也。Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất
tri, thị tri dã”) Những lời răn dạy của ông đối với con cái có
thể quy thành nguyên tắc: Không được dạy những điều mà
mình chưa hiểu rõ ; muốn vậy thì phải biết rõ
phạm vi kiến thức của mình Trong cuộc đời dạy học,
hẳn là ông đã nhiều lần dạy bảo các thế hệ học trò những điều này..
Nhìn lại những quyển từ điển do nhà
giáo Nguyễn Lân biên soạn, người ta thấy rằng ông đã lên giọng giảng giải vô số điều mà ông không hiểu. Hiện
tại chưa thể biết là ông đã giảng sai bao nhiêu từ ngữ tiếng Việt, nhưng chắc
chắn rằng con số đó lớn gấp nhiều lần so
với những gì đã được một số tác giả vạch
ra và công bố trên báo chí.. Số
lượng sai lầm nhiều không thể kể hết. Trong bài Hai quyển từ điển rất có hại cho
tiếng Viêt (xin lưy ý, trên mạng Internet hiện nay có hai bài mang tiêu
đề này, ở đây muốn nói đến bài dài hơn 50 000 chữ chứ không phải bài ngắn chừng
5 000 chữ), tác giả đã vạch ra 200 từ ngữ bị giảng sai, nhưng đó chỉ mới là một
phần nhỏ trong rất nhiều từ ngữ bị giảng
sai ở cuốn Từ điển từ và ngữ Hán- Việt, nghĩa là một phần nhò ở những từ ngữ
có gốc Hán mà thôi. Trong một từ, nhiều khi soạn giả Nguyễn Lân đã phạm hai hoặc
ba, bốn sai lầm: sai lầm ở việc giảng nghĩa của từ, sai lầm khi chú giải các từ
tố, sai lầm ở ví dụ minh họa, v.v. Ngay ở 200 từ ngữ bị giảng sai mà bài Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Viêt đã vạch ra thì số sai lầm không phải chì là
200. Trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam
(2111 trang, có dung lượng gấp 2,5 lần so với Từ điển từ và ngữ Hán – Việt), số sai lầm có thể lên đến hàng ngàn,
bởi vì ông còn giảng sai vô số từ và thành ngữ được coi là “thuần Việt” (không
có gốc Hán). Các cuốn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển thành ngư, tục ngữ Việt – Pháp của
Nguyễn Lân đều chứa vô số sai lầm mà các tác giả Huệ Thiên và Nguyễn Văn Điện
đã vạch ra. Nếu ai đó muốn viết một luận
văn về hiện tượng hiểu sai và giảng nghĩa sai tiếng Việt thì Từ điển
từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân là một nguồn dữ liệu rất phong phú vì nó cho thấy quá nhiều sai lầm đủ các chủng loại, thể hiện trên “giấy trắng mực đen”. Trong số 5 cuốn từ
điển do ồng Nguyễn Lân biên soạn một
mình (đó là: u Từ
điển từ và ngữ Việt Nam, v
Từ điển từ và ngữ Hán-Việt, w Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, x Từ diển thành ngữ, tục ngữ Việt- Pháp, y
Từ
điển thành ngữ, tục ngữ Pháp - Viêt)
thì các quyển u, v, w đã bị Huệ Thiên và Lê Mạnh Chiến phê phán từ lâu mà không ai
có thể phản bác, và gần đây lại có thêm hàng
loạt bài phê phán rất đáng chú ý của Hoàng Tuấn Công. Quyển x cũng chứa rất nhiều sai lầm và đã bị ông Nguyễn Văn Điện phê phán trên tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển số
1(66)/2008 trong bài Về cuốn Từ điển của Nguyễn Lân. Chỉ
riêng cuốn y là chưa có bài phê phán nhưng thực tế đã cho thấy rằng nhà giáo Nguyễn Lân vốn rất yếu kém về tiếng
Việt nên chắc chắn rằng quyển Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp – Viêt ấy cũng không thể tránh khỏi vô số sai
lầm, chẳng cần phải xem xét nữa.
Về lý thuyết, nhà giáo Nguyễn Lân đã
khuyên răn con mình và dạy học trò hai điều rất hệ trọng, rất đúng đắn. Nhưng trong
việc làm cụ thể, chính ông đã phản lại những lời dạy của mình. Đó là vì ông đã không
có năng lực tra cứu, chỉ nhặt nhạnh kiến thức trên sách báo một cách không có hệ
thống, nhưng lại nghĩ rằng mình đã quá giỏi, đủ sức để dạy dỗ mọi người, do
không nắm được những tri thức phổ thông cơ bản nhất. Ông đã hăm hở “chú giải từ tố” và “giải thích
từ nguyên” ở những từ ngữ có gốc Hán, mà
muốn thực hiện điều đó thì phải tra cứu
được các bộ đại từ điển Hán ngữ, mà phải tra cứu rất nhiều sách, nhưng trước hết
là phải nắm rất vững những tri thức cơ bản
ở mức cao hơn hẳn bậc trung học. Hình như ông không nghĩ đến điều đó, và ông
cũng không biết rằng, kiến thức của ông về mọi phương diện, về toán học, vật lý
học, hóa học, sinh vật học, lịch sử, địa lý... đều chưa đạt ngưỡng trung học.
Những ví dụ vừa nêu trên đây đã chứng tỏ điều đó. Tuy ông đọc được tiếng Pháp
nhưng không sử dụng được các từ điển của Pháp vào việc biên soạn từ điển tiếng
Việt. Không phải ông chỉ bế tắc về thuật
ngữ khoa học trong tiếng Pháp, mà chủ yếu là bế tắc ngay ở tri thức phổ thông về
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. thường thức. Khi đã không hiểu được các
khái niệm khoa học thì dẫu đọc bằng tiếng Việt cũng chẳng hiểu, huống chi là đọc
tiếng Pháp. Những thí dụ về nhiều sai lầm của ông mà quý vị độc giả đã thấy
trong bài này đã quá đủ để khẳng định điều đó. Nếu sử dụng được từ điển của
Pháp thì một loạt thuật ngữ khoa học tự nhiên trên đây sẽ được định nghĩa một
cách dễ dàng. Không đọc được chữ Hán mà lại dám nhận lấy việc “chú giải từ tố”
và “giải thích từ nguyên” của các từ ngữ gốc Hán thì thật là quá liều lĩnh. Việc
này còn khó khăn và phức tạp hơn việc đọc
tiếng Pháp rất nhiều. Cứ nhìn vào việc giải thích từ nguyên của các từ viên môn hay thạch tín trên kia thì đủ thấy rằng, cái việc “giải thích từ
nguyên” và “chú giải từ tố” của các từ ngữ gốc Hán chẳng dễ chút nào.
Không phải ông chỉ phạm sai lầm ở những
từ ngữ gốc Hán mà thôi. Vô số từ được coi là “thuần Việt” cũng bị ông giảng
sai, rất nhiều thành ngữ, tục ngữ cũng bị ông giảng sai. Độc giả nào muốn kiểm
chứng, hãy đọc các bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân và Những chỗ sai khó ngờ trong
«Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam» của Nguyễn Lân (của
Huệ Thiên) hay các bài gần đây của Hoàng Tuấn Công (Từ điển từ và ngữ Việt
Nam của GS Nguyễn Lân, mục chữ cái nào cũng có sai sót; Những sai lầm mang tính
hệ thống trong “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân; Thử
lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển – GS Nguyễn Lân, và v.v.) thì sẽ thấy vố số sai
lầm thật khó tưởng tượng. Tất cả các bài này đều rất dễ tìm trên mạng Internet.
Nhà giáo Nguyễn Lân đã nhầm to khi
“dấn thân” vào lĩnh vực từ điển. Trong lĩnh vực này, ông thực sự là người yếu
kém nhất, với những lỗ hổng kiến thức không thể khắc phục.
3.
Lời
giảng sai vẫn được ca ngợi là “nhất tự thiên kim”
Trong hơn 100
bài ca ngợi tài đức tuyệt vời vô song của nhà
giáo Nguyễn Lân được đăng tải trong cuốn sách Vinh quang nghề thầy cùng
hai tập Ký yếu Hội thảo GS NGND Nguyễn
Lân với sự nghiệp trồng người (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2006) và Kỷ yếu Hội thảo NGND Gs Nguyễn Lân - cuộc đời và sự nghiệp (Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2013), hầu như tất cả mọi
bài đều lặp đi lặp lại một số ý kiến dựa trên cảm tính, thiếu hẳn những dẫn chứng cụ thể đáng tin cậy và có sữc
thuyết phục. Chỉ có vài đoạn có vẻ như đã đưa ra được dẫn chứng về công lao và trí tuệ kiệt xuất của nhà giáo Nguyễn Lân. Thứ
nhất là đoạn nói về Từ điển từ và ngữ
Việt Nam trong bài Nguyễn Lân và “mùa
thu vàng” sáng tạo của nhà báo Hàm Châu mà độc giả đã biết. Thứ hai là câu
chuyện sau đây trong bài Giáo sư Nguyễn
Lân – Nhà sử học thân yêu của chúng ta (trong Ký yếu Hội thảo NGND GS Nguyễn Lân, cuộc đời và sự nghiệp)
Tác
giả bài ấy là một PGS TS đã kể:
Ngày ấy, vào những
năm 60 của thế kỷ trước, sau khi có được cuốn sách nhỏ Những đề nghị cài cách của Nguyễn
Trường Tộ cuối thế kỷ XIX (viết chung với Đặng Huy Vận, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1962), đem đến kính biếu Thầy, gọi là quả bói đầu
mùa – công trình khoa học của người học trò đã
được Thầy gợi ý và chỉ bảo tận tình. Sau khi đọc xong, Thầy đã viết thư
cảm ơn (một lần nữa) và đề nghị chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu “nhà cách
tân lỗi lạc và yêu nước nhiệt thành “
này. Rồi mấy năm sau, khi có dịp trở lại quê hương Nguyễn Trường Tộ, đến thắp
hương nơi khu mộ của ông (khu mộ mà
chính thầy đã xuất tiền ra xây nên từ năm 1942), tôi thấy ở đôi câu đối khắc bên mộ, lâu ngày có một chữ Hán ở về bên
trái bị lở sứt, có thể đọc lầm lẫn là chữ cơ
hoặc thân:
Nhất thất túc thành thiên cổ hận
Tái đầu hồi thị bach niên cơ
(thân)
(Một lần
sẩy chân ân hận (đến) ngàn đời / Quay đầu
trở lại, cơ đồ (đã) trăm năm.)
hoặc: Một lần sẩy chân ngàn năm ân hận / Quay đầu lại đã trăm năm thân mình.
Kể
ra, “thân” với “cơ” đều có nghĩa (hợp lý), vì thế, có nhiều người đã nói chữ sứt lở đó là chữ thân (và
ngay đến giờ đây, trong tập sach Vinh
quang nghề thầy, anh bạn Trường Phước vẫn viết là thân).
Nhưng tôi nghĩ chữ thân có lẽ không thỏa đáng, đến hỏi Thầy
và đã được Thầy giảng giải cho thật cặn kẽ cả
nghĩa gốc của chữ cơ: cơ là nền, là gốc... và nghĩa dẫn thân cơ là cơ đồ, là sự nghiệp, là vận mệnh của cả một vương triều v.v...
Vế trên của câu đối là hận (ân hân) – từ chỉ sự trừu tượng,
thì vế dưới đối lại phải là một từ có tính chất cũng trừu tượng, cho nên dùng
chữ cơ (cơ đồ) là chuẩn xác và hợp
lý hơn là từ thân (thân thể). Rõ là
đầy sức thuyết phục Tôi nhớ mãi câu nói cảm ơn của tôi khi đó: Thưa thầy! đúng là “Nhất tự thiên kim” vậy.
Trước hết, hai câu này không phải là hai
câu đối, mà phải coi là một lời than thở hay một sự đúc kết kinh nghiệm ở đời, là
những câu ở cuối một bài thơ. Cái chữ bị
sứt ấy, phải là chữ thân.
Nhất thất túc
thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu, thị bach niên thân. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu
thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì ôm hận mãi mãi. Ngoái đầu nhìn lại
thì mình chỉ còn cái thân già yếu . Rất đúng với tâm tư của người có hoài
bão lớn nhưng “lỡ thời”
Nếu thay chữ thân bằng chữ cơ, nghĩa
là cơ nghiệp, là sự nghiệp, thì sẽ có:
Nhất thất túc
thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu,thị bach niên cơ. Nghĩa là: Một lần sẩy chân (= một lần cẩu
thả, một lần hẫng hụt, một lần sa ngã) thì phải ôm hận mãi mãi. Ngoái đầu
nhìn lại thì mình đã có cơ nghiệp trăm năm . Như vậy thì cái sự “thất túc”,
cái sự “sẩy chân” kia chẳng liên quan đến
cơ nghiệp, chẳng gây nên hậu quả gì cả, chẳng đáng phải mang hận mãi mãi.
Rõ ràng là, việc đặt chữ cơ ở cuối câu thứ hai (thay cho
chữ thân) là một sai lầm
nghiêm trộng, một ý kiến thiếu suy nghĩ, sự biện luận cho ý kiến đó là một việc
làm gượng ép, vô nghĩa. Vậy mà cũng có vị PGS TS đành giá là “nhất tự thiên
kim”. Theo các từ điển Từ nguyên và Từ hải thì thiên kim 千金 nghĩa
là một ngàn cân vàng, mà mỗi cân ở Trung Quốc từ thời Đường bằng
666g, sau đó giảm dàn, đến thời Thanh là 596g và hiện nay quy định là 500g. Hóa
ra, một chữ suy luận sai rành rành của nhà giáo Nguyễn Lân cũng có giá hơn nửa
tấn vàng cơ đây!
Phải chăng,
vì quá yêu mến, quá tin tưởng ở trí tuệ của Thầy, hay là vì hiệu ứng đám
đông, khi đã khen ai thì mọi người cứ xúm vào khen thật hết lời, cho nên sau
hàng chục năm mà vị PGS TS này vẫn không nhận ra cái sai rành rành của ông Thầy?
Xin nói rõ về xuất xứ của hai câu thơ kia. Đó
không phái là hai vế đối, cũng không phải là Nguyễn Trường Tộ.
Nhà danh họa kiêm học giả, thi nhân nổi
tiềng đời Minh là Đường Dần đã viết: Nhất thất túc thành thiên cổ tiếu 一失足成千古笑, Tái hồi đầu thị bách niên nhân 再回头是百年人(Một lần sảy chân, trở thành trò cười mãi mãi. Quay đầu nhìn
lại thì mình đã trở thành người già cả. Đó
là sự chiêm nghiệm của tác giả về cuộc đời của mình.
Đường
Dần 唐寅 (1470 – 1524) còn gọi là Đường Bá Hổ,
quê ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô, là người thông minh, học giỏi. Năm 1498, đỗ Giải
nguyên (đỗ đầu Cử nhân) tại trường thi ở phủ Ứng Thiên (Nam Kinh). Năm sau, ông
cùng đi với người bạn tên là Từ
Kinh 徐 經 đến
kinh đô để thi hội. Ông làm bài rất tốt, quan chủ khảo là Lễ bộ Thị lang Trình
Mẫn Chính 程政敏 rất phục tài, nhưng người ta phát hiện ra việc Từ Kinh đút
lót tiền cho tên đầy tớ của quan chủ khảo
để lấy đề thì nên ông cũng bị vạ lây, bị nhốt vào ngục và bị tước danh hiệu Giải nguyên. Về sau, triều
đình xét thây ông vô can nên được trả lại danh hiệu Giải nguyên nhưng đã lỡ mất
kỳ thi lần này. Từ dó, ông chán ghét con đường thi cử, quyết từ bỏ con đường công danh, chỉ thích du ngoạn, vẽ tranh và làm thơ. Tuy không
bước vào làng khoa bảng và không làm quan to nhưng ông rất nổi tiếng, được người
đời xếp vào nhóm “Minh tứ gia”, gồm bốn nhà danh họa nổi tiếng nhất dưới thời nhà
Minh. Bởi vậy, đối với ông, sự “sẩy chân” trở thành “trò cười mãi mãi”. Phải
chăng, vì rất nổi tiếng nên ông thấy mình đã trở thành “bách niên nhân” nghĩa
là người sống lâu (theo nghĩa bóng), mặc dầu ông chỉ sống đến 54 tuổi. .
Đến đời Thanh, tiểu thuyết gia Ngụy
Tú Nhân 魏秀仁 , tức
Ngụy Tử An 魏子安
(1819 – 1873) đã cải biên hai câu thơ kia của Đường Dần, thành ra Nhất thất
túc thành thiên cổ hận 一 失 足 成 千 古 恨,Tái
hồi đầu thị bách niên thân 再
回 頭 是 百 年 身 để làm hai câu cuối ở một bài thơ “thất ngôn bát cú”
trong tiểu thuyết Hoa nguyệt ngấn 花月痕. Toàn văn bài thơ như sau:
芳 心 怕 載 春 愁 重, Phương tâm phạ tải xuân sầu trọng,
花 里 相 思 讓 與 君. Hoa lý
tương tư nhượng dữ quân.
滌 盡 千 年 尘 上 夢, Địch tận thiên niên tiêm thướng
mộng,
君 心 應 似 藕 玲 瓏. Quân tâm ưng tự ngẫu linh lung.
相 思 未 必 能 相 見, Tương
tư vị tất năng
tương kiến,
夜 雨 春 愁 萬 点 红. Dạ vũ xuân sầu vạn điểm hồng.
一 失 足 成 千 古 恨,
Nhất
thất túc thành thiên cổ hận,
再 回 頭 是 百 年 身. Tái hồi đầu thị bách niên thân.
Hai câu
do Ngụy Tú Nhân cải biên từ thơ của Đường Dần đã được người đời truyền tụng
vì có tính khái quát cao, có thể vận dụng cho rất nhiều người, vì mấy ai từng gặp
hoạn nạn mà về sau được vinh dự như Đường Dần? Hẳn là, khi còn sống, Nguyễn Trường Tộ.và những
người đồng cảm với ông thường nhắc đến hai câu thơ “cải biên” này.
Cảm ơn loạt bài biết
Trả lờiXóaTrước đây tôi cũng không có thời gian để tìm hiểu, và là lớp hậu sinh nên cứ mặc nhiên mà tin về danh tiếng của dòng họ Nguyễn Lân qua các phương tiện truyền thông. Tôi chỉ thật sự nghi ngờ về danh tiếng này khi vụ việc Nguyễn Lân Dũng đứng ra bảo kê cho vụ Huyền Chip với cuốn sách đình đám Vác balo lên và đi
Nếu có thể thì bóc dần sự thật về các GS con nữa
Kính
Wynn casino | DrmCD
Trả lờiXóaWe 광명 출장샵 offer the best in slots and poker. From table games and 안동 출장안마 live dealers to bingo, our tables are the 공주 출장마사지 most trusted of 원주 출장샵 the leading names in 동해 출장안마 casino gaming.